Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình từng phát biểu: “Người có vàng mà chỉ cất giữ ở nhà sẽ gây rủi ro cho bản thân họ và xã hội, đồng thời số vốn nằm chết trong vàng không được phát huy. Vậy tại sao không để Ngân hàng Nhà nước thay mặt Nhà nước huy động số vàng đó?”. Nhưng thực tế, vàng vẫn để ở “ống bơ” từng nhà; còn lãi suất ngân hàng tuy giảm nhưng DN lại rất khó tiếp cận. DN đã khó lại càng khó.
Chưa có thuốc làm cho vàng “sống”
Ngày 3.4.2012, Nghị định 24 có hiệu lực, theo đó, SJC trở thành vàng miếng thương hiệu quốc gia do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) độc quyền sản xuất, trong khi các loại vàng miếng khác sẽ phải ngừng sản xuất. Đây là một trong những nỗ lực nhằm kiểm soát thị trường vàng, như thống đốc từng tuyên bố: “Nếu vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới từ 400.000 đồng/lượng trở lên chứng tỏ đã và đang có hiện tượng đầu cơ, làm giá”.
"Người có vàng mà chỉ cất giữ ở nhà sẽ gây rủi ro cho bản thân họ và xã hội, đồng thời số vốn nằm chết trong vàng không được phát huy"
Thống đốc Nguyễn Văn Bình |
“Vàng là vàng, nhưng đôi khi cũng là đất thôi, vì nó chỉ mang giá trị quy ước. Để dân tích trữ vàng nhiều như thế thì đó chính là sự thất bại của đồng nội tệ và điều hành kinh tế”- bà Loan nói.
Đang có tâm lý “quá mù ra mưa”
Chú trọng tới chính sách tiền tệ, tài khóa mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã thực hiện từ đầu nhiệm kỳ, cựu Thống đốc NHNN - TS Cao Sĩ Kiêm - cho rằng: “Đã bắt đầu được củng cố tốt hơn, hướng tới tính ổn định của nền tài chính”. Việc chống lạm phát từ chính sách tài khóa, tiền tệ, ông Kiêm đánh giá là “thành công, có kết quả rõ ràng dù đây là việc khó trong nhiều năm qua”.
Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn có vẻ không được tốt như sự lạc quan của thống đốc. Trong khi lãi suất huy động của dân đã giảm ngay lập tức thì việc cho vay đầu ra là chưa thành công. Với vai trò là Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ hiện nay, ông Cao Sĩ Kiêm đưa ra con số hiện khoảng 60% số DN tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ, 40% còn lại không thể.
Theo ông Kiêm, việc kéo lãi suất với các khoản vay cũ về 15% là đúng, nhưng “lời khuyên không phải là quy định pháp luật”. Vì thế đã sinh ra tình trạng có NH thực hiện, có NH không làm.
Về vấn đề lớn nhất của DN là không tiếp cận được vốn. Nguyên nhân- theo ông Kiêm, là do tốc độ tăng trưởng tín dụng quá chậm. “Trước đây 17%, giờ chỉ được 8-9%. Và mức tăng trưởng này không theo kịp tốc độ phát triển kinh tế. Với tình trạng sức mua quá thấp, tồn kho quá cao, DN không bán được hàng, không trả được nợ, không vay được tiền. Trong khi đó, chi phí đầu vào- đáng lẽ phải giảm, thì lại tăng rất nhanh, tăng rất cao. Không tiếp cận được nguồn vốn khiến các DN thậm chí không dám vay, vì càng làm càng tồn, càng nợ, càng lỗ.
“DN đang có tư tưởng mặc kệ. Quá mù ra mưa rồi, khi mà muốn vươn lên cũng không được nữa”- ông Kiêm nói.
Bà Phạm Thị Loan cũng đánh giá, do lo sợ nợ xấu gia tăng, kết quả từ việc xử lý nợ xấu chưa có hiệu quả, ngân hàng đã siết chặt các tiêu chí cho vay, đến mức gần như đã chặn đường DN.
Giải pháp tốt nhất là cần có sự thương lượng, chia sẻ giữa NH và DN.
Tuy nhiên, muốn giải quyết rốt ráo, phải xóa bỏ “lợi ích nhóm”- như thừa nhận của thống đốc- bởi “lợi ích nhóm” trong ngân hàng đang tạo sự “độc quyền vốn” ngoài thực tế.
Bình luận (0)