Tiềm năng thủy điện của Việt Nam tập trung ở 10 hệ thống lưu vực trải dài như sông Đà, sông Lô, sông Gâm cho đến sông Sê San, sông Đồng Nai. Theo Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Công Thương, mạng lưới sông ngòi nước ta gồm 2.360 sông suối. Tổng tiềm năng thủy điện có công suất lắp máy khoảng 300 tỉ KWh, tiềm năng kinh tế kỹ thuật khoảng 100 tỉ KWh.
bị vỡ nát chỉ sau một cú tông của xe ben hôm 22-11. Ảnh: NGUYỄN ĐẮC VINH
Ồ ạt khai thác
Nước ta đã tập trung khai thác triệt để nguồn năng lượng này. Từ mức công suất trên 1.100 MW vào năm 1990, đến năm 2004, công suất của cả hệ thống điện đã tăng lên 4.100 MW nhờ có một số nhà máy thủy điện lớn hòa lưới như Hòa Bình (1.920 MW), Hàm Thuận - Đa Mi (300+175 MW), Yaly (720 MW)… Từ năm 2007-2010, đã có thêm 23 nhà máy thủy điện mới được bổ sung với tổng công suất tăng thêm khoảng 4.000 MW.
Thừa nhà máy, thiếu sản lượng
Việc ồ ạt đầu tư thủy điện đã khiến công suất nguồn thủy điện luôn chiếm tỉ trọng rất cao. Giai đoạn năm 1991-1997, thủy điện chiếm 64%-72% tỉ trọng toàn ngành và đạt đỉnh cao nhất hơn 72% vào năm 1994-1995. Những năm sau, tỉ trọng này giảm dần nhưng ngay cả khi xuống thấp nhất, thủy điện cũng chiếm tới 36% tổng sản lượng điện cả nước (năm 2007) và đến năm 2010 lại tăng lên gần 40%.
Có một nghịch lý là vào mùa khô, Việt Nam thừa nhà máy điện nhưng lại thiếu sản lượng. Mặc dù 6 tháng đầu năm 2010, cả nước có thêm 1.500 MW nguồn thủy điện mới nhưng tổng sản lượng điện vẫn hụt 2 tỉ KWh vì không có nước để phát điện. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang từ điều hành hệ thống điện theo tháng phải chuyển sang điều hành theo tuần, thậm chí là theo ngày, tùy vào mực nước trong các hồ thủy điện.
Người dân huyện Bắc Trà My - Quảng Nam bất an vì những sự cố từ thủy điện Sông Tranh 2. Ảnh: HOÀNG DŨNG
Thảm họa
Sau thời gian phát triển ồ ạt, đến nay, Việt Nam đang phải đối phó với những hậu quả không nhỏ do thủy điện đem lại và đặt ra bài toán được - mất từ góc độ môi trường.
ÔNG NGUYỄN NGỌC QUANG, PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC UBND TỈNH QUẢNG NAM: Mất nhiều hơn được Trong thực tế làm thủy điện, địa phương đã mất nhiều hơn là được. Những hệ lụy do thủy điện gây ra quá lớn. Nhiều dự án, chủ đầu tư không thực hiện theo cam kết tiến độ đã đề ra, thậm chí không triển khai xây dựng, gây nhiều khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Các thủy điện cũng làm mất rừng, mất cân bằng sinh thái, thiếu nước sản xuất trong mùa hạn... Riêng các thủy điện Sông Tranh 2, Đắk Mi 4, Đắk Mi 4C, Sông Bung 4, A Vương đã khiến hơn 3.500 hộ bị ảnh hưởng. Dân tái định cư mất đất sản xuất, có nguy cơ trở thành hộ nghèo. Trước tình hình đó, vừa qua, Quảng Nam đã thống nhất dừng triển khai, loại bỏ 19 dự án thủy điện trên toàn tỉnh. ÔNG HỒ VĂN TIẾN, CHÁNH VĂN PHÒNG KIÊM NGƯỜI PHÁT NGÔN CỦA UBND TỈNH PHÚ YÊN: Gây ngập nặng và khô hạn Việc phối hợp vận hành liên hồ thủy điện trên sông Ba để xả lũ trong mùa mưa và điều tiết nước vào mùa cạn còn nhiều bất cập. Người dân Phú Yên chưa thể quên đợt lũ năm 2009, thủy điện xả lũ khiến cả hạ du sông Ba bị ngập trắng. Còn trong mùa cạn, khi các thủy điện trên sông Ba tích nước thì hạ du lại khô hạn. Hiện chưa vào vụ đông xuân nhưng hồ thủy điện Sông Ba Hạ đã xuống mực nước chết. Khả năng khô hạn trong vụ đông xuân này là rất cao. Đó là chưa kể thủy điện An Khê - Ka Nak lấy nước sông Ba nhưng lại trả nước về sông Côn (Bình Định) càng gây thêm tình trạng thiếu nước hạ du sông Ba vào mùa cạn, còn mùa mưa lại xả lũ xuống sông Ba gây thêm áp lực lũ cho hạ du. Hiện tại, đã có quy trình vận hành liên hồ chứa trong mùa lũ. Tuy nhiên, ai sẽ giám sát việc vận hành liên hồ này? Tỉnh Phú Yên đã nhiều lần đề nghị các bộ, ngành liên quan cần thiết thành lập ban chỉ đạo vận hành liên hồ chứa nước trên sông Ba, trong đó có sự tham gia của chính quyền địa phương các tỉnh như Phú Yên, Gia Lai để giám sát chặt chẽ việc tuân thủ quy trình vận hành liên hồ. Dù vậy, đến nay, ban chỉ đạo này vẫn chưa được thành lập. Chúng tôi sẽ kiên trì theo đuổi ý tưởng này. ÔNG VÕ VĂN CHÁNH, PHÓ GIÁM ĐỐC Hệ lụy khó lường Việc có quá nhiều thủy điện trên sông Đồng Nai làm biến đổi hình thái của sông, trái với quy luật tự nhiên, gây nhiều hệ lụy khó lường như xói mòn, sạt lở, lũ quét. Bên cạnh đó, những thủy điện dày đặc, san sát nhau đã làm thay đổi dòng chảy, có khi làm biến dạng hoàn toàn hình hài dòng sông, khiến lượng nước từ thượng nguồn về vùng hạ lưu trong mùa khô ít; ngược lại, mùa mưa lũ lụt sẽ tăng thật khó lường. Chất lượng nước sông cũng sẽ giảm nghiêm trọng, ô nhiễm tăng cao, đồng thời quá trình nhập mặn của nước biển sẽ càng sâu hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sinh hoạt của cả vùng hạ lưu rộng lớn. Sở Tài nguyên - Môi trường đã kiến nghị UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành lập quy hoạch phát triển thủy điện trên sông Đồng Nai theo đúng quy định của Luật Tài nguyên nước và xem xét quyết định đầu tư các dự án phù hợp để phát triển bền vững.
H.Dũng - H.Ánh - X.Hoàng ghi |
Bình luận (0)