Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến"

(NLĐO) - Bảo vật quốc gia "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1946 đã tiếp thêm sức mạnh dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình.

Được tôn vinh là bảo vật quốc gia, bản thảo "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cách đây gần 80 năm, không chỉ là áng hùng văn bất tử mà còn tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc trong kỷ nguyên vươn mình.

Hiệu lệnh lịch sử trong giờ phút sinh tử

Lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã để lại những áng thiên cổ hùng văn, đó là "Nam quốc sơn hà nam đế cư" của Lý Thường Kiệt, "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo, "Bình Ngô Đại cáo" của Nguyễn Trãi…

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 1.

Bản thảo "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Dưới thời đại Hồ Chí Minh, bản "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một áng hùng văn kiệt xuất. Tiếp đó, "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cũng là áng hùng văn mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kéo dài 9 năm và kết thúc bằng thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hịch của non sông đất nước cổ vũ tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, chính quyền non trẻ phải đối diện vô vàn thử thách. Nỗ lực ngoại giao, các bản Hiệp định và Thỏa ước nhằm duy trì hòa bình không ngăn chặn được dã tâm tái chiếm của thực dân Pháp. Cuối năm 1946, tình hình tại Hà Nội và nhiều đô thị miền Bắc căng thẳng tột độ.

Những nỗ lực đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Pháp để công nhận một nước Việt Nam độc lập không thành công. Các vụ khiêu khích vũ trang ngày càng leo thang, tối hậu thư liên tiếp được đưa ra, mọi đường thương lượng gần như bị cắt đứt, dấy lên sự phản đối của nhân dân và dẫn đến bùng nổ Toàn quốc kháng chiến.

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong thời khắc lịch sử ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ cấp bách của cách mạng là xây dựng, bảo vệ chính quyền non trẻ, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Để hoàn thành sứ mệnh đó, chỉ có một con đường: động viên toàn dân vùng lên kháng chiến.

Từ ngày 18 đến 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Tây cũ, nay là Hà Nội) và đi đến quyết định trọng đại: phát động Toàn quốc kháng chiến. Đêm 19-12, khi súng nổ trên khắp phố phường Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" với ý chí: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

"Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" được Bác chấp bút trên gác hai nhà ông Nguyễn Văn Dương, người làm nghề dệt lụa ở làng Vạn Phúc. Trong bút tích, ngoài nét chữ mực nâu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn có bút tích sửa bằng mực xanh của đồng chí Trường Chinh – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là minh chứng về sự thống nhất ý chí và tinh thần tập thể trong lãnh đạo Đảng.

Ngay sau đó, Lời kêu gọi được phát trên Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam tại chùa Trầm (Hà Tây cũ, nay thuộc TP Hà Nội) và đăng trên trang nhất Báo Cứu Quốc – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Nó cũng được in thành hàng ngàn áp phích gửi về các địa phương. Từ thành thị đến nông thôn, từ tiền tuyến đến hậu phương, khẩu hiệu kháng chiến được treo, đọc, truyền miệng, biến thành hành động của hàng triệu con người.

"Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!

Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.

Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!

Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!"

Hiệu triệu toàn dân kháng chiến

Đáp lại lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với ý chí "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", bộ đội và nhân dân cả nước đã tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Tại Hà Nội, sau hiệu lệnh nổ súng, Vệ quốc đoàn và Tự vệ đồng loạt tiến công các mục tiêu trong trung tâm thành phố. Phối hợp với bộ đội, các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp chặn địch.

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 3.

Phát lệnh toàn quốc kháng chiến tại các của ngõ Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Tư liệu

Cùng với quân, dân Thủ đô, quân và dân các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, như: Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang... cũng nổ súng tiến công giam chân địch trong các thành phố, thị xã, giành được thắng lợi bước đầu.

Ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, lực lượng vũ trang và nhân dân đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ.

Cuộc chiến đấu quyết liệt, anh dũng của quân và dân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã giành được những thắng lợi quan trọng, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.

Chiến tranh kéo dài suốt 9 năm, kết thúc vào ngày 21-7-1954 bằng Hiệp định Geneva. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam và kết thúc ách thống trị của thực dân Pháp. Thành công đó là tiền đề để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến giành thắng lợi.

Lời kêu gọi của Bác trở thành hiệu lệnh non sông, làm bùng nổ sức mạnh đại đoàn kết. Trong đêm đông giá lạnh, cả Hà Nội bừng lên ngọn lửa kháng chiến. Từ thành thị tới nông thôn, từ miền ngược tới miền xuôi, nhân dân cả nước nhất tề đứng lên.

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 4.

Các chiến sĩ Vệ quốc quân và nhân dân Thủ đô chiến đấu giữ từng căn nhà, góc phố trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Ảnh: Tư liệu

Văn kiện lịch sử ấy hiệu triệu toàn dân kháng chiến, trở thành lời hịch cứu quốc, bản tuyên ngôn đanh thép khẳng định ý chí, quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc. Lời hịch khơi dậy sức mạnh yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Không chỉ là hiệu lệnh quân sự, văn kiện ấy còn là áng hùng văn non sông, đánh thức ý chí độc lập và khẳng định quyết tâm sắt đá của dân tộc.

Gần 80 năm qua, dù đất nước trải qua nhiều biến động, giá trị lịch sử và tinh thần bất khuất trong "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" vẫn soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hôm nay. Áng hùng văn đã khơi dậy lòng yêu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của dân tộc và được công nhận là Bảo vật quốc gia ngay từ đợt đầu tiên năm 2012.

Gần 80 năm vẫn nguyên sức sống

Các nhà nghiên cứu văn học và lịch sử đánh giá "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" là áng hùng văn bất tử. Chỉ với vài trăm chữ, bản văn vừa là lời hiệu triệu, vừa là tuyên ngôn khẳng định quyền sống và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam.

PGS-TS Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện Trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phân tích: "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác rất nhẹ nhàng, nhưng lại rất súc tích và đi vào lòng người. Người ta hiểu rất rõ đường lối kháng chiến của Đảng là phải như thế, là ai cũng phải tham gia đánh địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay. Cuộc kháng chiến gian khổ nhưng sẽ thắng lợi. Đó chính là tinh thần của lời kêu gọi".

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 5.

Cảm tử quân ôm bom ba càng chiến đấu trên đường phố Hà Nội. Ảnh tư liệu

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, sau gần 80 năm, những giá trị của "Toàn quốc kháng chiến" vẫn còn nguyên sức sống… Sự nhất quán trong tinh thần đại đoàn kết, tình yêu nước trở thành niềm tự hào, động lực và nguồn sức mạnh để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 6.

Đoàn quân chiến thắng tiến về giải phóng Thủ đô 10-10-1954. Ảnh tư liệu

Bài học đầu tiên là khát vọng hòa bình – dân tộc Việt Nam chưa bao giờ muốn chiến tranh, chỉ khi bị buộc phải cầm vũ khí mới đứng lên chống xâm lược. Thứ hai là sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, yếu tố quyết định giúp chúng ta có thể chiến đấu trong điều kiện so sánh lực lượng không cân bằng. Bài học thứ ba là tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, huy động sức mạnh toàn dân và tổ chức kháng chiến phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, để giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi cuối cùng.

Bảo vật quốc gia – giá trị bất tử của áng hùng văn

Từ ngôi nhà nhỏ ở Vạn Phúc, qua làn sóng phát thanh chùa Trầm, tới hôm nay, bản thảo gốc "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Năm 2012, văn bản này chính thức được công nhận là Bảo vật quốc gia trong đợt đầu tiên, cùng với Tuyên ngôn Độc lập và Nhật ký trong tù.

Hiện vật là hai trang giấy màu ngà, kích thước 13,5 x 20,5 cm, viết tay bằng mực nâu, lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Sự công nhận này khẳng định giá trị độc bản, tiêu biểu và đặc biệt quý hiếm của văn kiện, không chỉ bởi ý nghĩa lịch sử, mà còn bởi bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh.

Bảo vật quốc gia – áng hùng văn bất tử "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" - Ảnh 7.

Bản thảo "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" đã được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2012

Trong tủ kính trang trọng của bảo tàng, từng nét chữ mực nâu của Bác vẫn rõ ràng. Đó không chỉ là hiện vật lịch sử, mà là biểu tượng thiêng liêng của ý chí độc lập và tinh thần kháng chiến bất khuất. Hàng vạn lượt người mỗi năm, trong đó có học sinh, sinh viên, kiều bào và bạn bè quốc tế, đến chiêm ngưỡng, lắng nghe câu chuyện phía sau bản thảo, để hiểu vì sao văn bản này có sức sống bền bỉ đến vậy.

"Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" đã đi trọn hành trình của một áng hùng văn bất tử. Đó là hiệu lệnh non sông, ngọn đuốc soi đường kháng chiến, và Bảo vật quốc gia kết tinh ý chí, khát vọng vươn lên của cả dân tộc Việt Nam.

Lời kêu gọi không chỉ thuộc về quá khứ, mà còn soi sáng hiện tại và tương lai. Những thông điệp độc lập, tự do, đại đoàn kết, tự lực tự cường vẫn là kim chỉ nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Gần 80 năm trôi qua, "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" vẫn vẹn nguyên giá trị, là di sản lịch sử, kết tinh trí tuệ và khát vọng dân tộc, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân.

Bản thảo ấy trở thành chứng tích sống động của một thời khắc định mệnh, nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau về bài học đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, về sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tinh thần tự lực tự cường. Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, những thông điệp ấy vẫn nguyên giá trị: độc lập – tự chủ – đoàn kết – sáng tạo.