Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân

(NLĐO) - Không chỉ truyền đạt chính sách, cán bộ cơ sở còn trực tiếp tháo gỡ rào cản nhận thức, giúp người dân tiếp cận vốn và lựa chọn khởi nghiệp phù hợp.

Giữa muôn vàn khó khăn từ biến đổi khí hậu, thị trường bấp bênh, hình ảnh những cán bộ cơ sở - những người "cầm tay chỉ việc", lặn lội đến từng hộ dân - trở thành nhân tố then chốt. Họ chính là cầu nối sinh động, thiết thực nhất đưa chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, giúp người dân, đặc biệt là người nghèo, phụ nữ và nông dân, chủ động vươn lên thoát nghèo bền vững.

Thay đổi tư duy

Một trong những rào cản lớn nhất tại nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa ở ĐBSCL không phải là thiếu chính sách hỗ trợ, mà là việc người dân chưa thực sự hiểu rõ, tiếp cận được và tin tưởng vào các chính sách đó.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 1.

Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Vĩnh Long tư vấn việc làm cho người lao động

Nhiều hộ nghèo, cận nghèo mang tâm lý e ngại, tự ti, hoặc hiểu sai về các khoản vay, cho rằng đó là "gánh nặng nợ nần" hoặc thủ tục quá rườm rà. Vai trò của cán bộ cơ sở, trước hết, là tháo gỡ rào cản nhận thức này.

Một cán bộ phụ trách nội vụ tại xã Ngãi Tứ (tỉnh Vĩnh Long) cho hay nhiều gia đình có thanh niên khỏe mạnh nhưng thiếu việc làm, thu nhập bấp bênh. Khi giới thiệu về chương trình vay vốn ưu đãi đi lao động tại nước ngoài họ sợ nhất là không biết tiếng, sợ bị lừa.

Cán bộ xã phải kiên trì, giải thích rõ từng bước: vay ở đâu (Ngân hàng Chính sách Xã hội), lãi suất bao nhiêu, quy trình đi lao động tại nước ngoài chính thức ra sao, có những đơn vị nào uy tín được nhà nước cấp phép.

"Sự minh bạch, rõ ràng đó giúp người dân không còn cảm thấy bị động, mà trở thành chủ thể tự quyết định tương lai của mình. Khi nhận thức được mở đường, hành trình "xuất ngoại" kiếm tiền trở nên khả thi hơn bao giờ hết" - vị cán bộ này nói.

Như trường hợp anh Võ Văn Nhân (30 tuổi, ngụ xã Ngãi Tứ), một người có tính cách nhút nhát, luôn nghĩ mình không đủ năng lực để ra nước ngoài lao động. Tuy nhiên, khi cán bộ phụ trách lao động, thương binh và xã hội của xã giới thiệu những câu chuyện thực tế về những người cùng xã đã thành công ở Nhật Bản hay Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) về mức thu nhập ổn định gửi về xây nhà cửa, có vốn làm ăn đã dần thay đổi suy nghĩ của anh.

Anh Nhân bày tỏ: "Gia đình tôi vốn khó khăn, sau khi học hết lớp 12 thì tôi xin đi làm công nhân nhưng thu nhập không đủ trang trải chi phí. Một lần tình cờ tôi gặp người quen làm ở xã và giới thiệu cho tôi chương trình đi lao động tại Đài Loan. Ban đầu tôi còn e ngại nhưng nhờ cán bộ ở xã tận tình hướng dẫn, tôi quyết định đăng ký đi".

Sau 5 năm làm việc chăm chỉ, anh Nhân gửi tiền về cho gia đình xây ngôi nhà khang trang và khi về nước, anh còn dư số vốn hơn 1 tỉ đồng để khởi nghiệp.

Một trường hợp khác là bà Phạm Thị Mười (ngụ xã Quới An, tỉnh Vĩnh Long), nhờ số tiền từ con gái làm việc tại Nhật Bản gửi về đã góp phần cải thiện đời sống.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 2.

Ngôi nhà của bà Phạm Thị Mười xây dựng khang trang nhờ tiền của con gái đi làm việc tại Nhật Bản gửi về

Theo bà Mười, con gái của bà đang làm trong ngành phục vụ nhà hàng tại Nhật Bản, mỗi tháng gửi về cho gia đình từ 29-35 triệu đồng. Nhờ khoản tiền này, gia đình dần ổn định cuộc sống. Sau 4 năm làm việc, con gái đã gửi tiền về giúp xây mới căn nhà trị giá gần 1 tỉ đồng, mang lại không gian sống khang trang hơn cho cả gia đình.

Vai trò "cầu nối"

Nếu như giải pháp đi làm việc tại nước ngoài phù hợp với một bộ phận thanh niên, thì với nhiều phụ nữ ở nông thôn ĐBSCL, việc học nghề tại chỗ là hướng đi khả dĩ và bền vững, giúp họ vừa tăng thu nhập vừa chăm lo gia đình. Cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã chính là lực lượng nòng cốt trong việc khơi thông tiềm năng này.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 3.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 4.

Phụ nữ nông thôn ở ĐBSCL có thu nhập ổn định từ việc đan lục bình. Ảnh: Hoàng Vũ

Bà Trần Thị Như Ý, Chủ tịch Hội LHPN xã Trường Xuân, TP Cần Thơ, cho rằng nhiều phụ nữ nông thôn rất chăm chỉ, khéo léo, nhưng đa phần chỉ quanh quẩn với ruộng đồng, việc nhà. Nhiều chị có hoàn cảnh khó khăn, muốn làm thêm nhưng không biết làm gì. Vì vậy, hội đóng vai trò là người thăm hỏi, lắng nghe và kết nối.

Từ nhu cầu thực tế, hội đã phối hợp với các trung tâm dạy nghề, doanh nghiệp tổ chức các lớp học ngắn hạn như: đan lục bình, học nghề may, đan nón lá... Đồng thời, hỗ trợ chị em phụ nữ vay vốn để có điều kiện khởi nghiệp.

Bà Huỳnh Thị Thu (ngụ ấp Trường Ninh 2, xã Trường Xuân) sau khi tham gia các buổi tập huấn trong việc trồng chanh không hạt và sầu riêng do Hội Nông dân xã tổ chức, bà quyết định phát triển 2 loại cây này trong vườn nhà.

Ngoài ra, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã đã hỗ trợ bà vay vốn 30 triệu đồng. Với diện tích trồng 2 loại cây trên khoảng 6 công, sau khi trừ chi phí, mỗi vụ bà thu nhập từ chanh khoảng 40 triệu đồng; còn sầu riêng đang phát triển, dự kiến thu hoạch trong năm nay.

ĐBSCL là vựa lúa của cả nước, nhưng nghề trồng lúa truyền thống đang đối mặt với thách thức lớn về chi phí, biến đổi khí hậu và giá cả. Để nông dân thực sự làm giàu từ lúa, cần thay đổi từ tư duy đến kỹ thuật. Cán bộ Hội Nông dân các xã chính là những "kỹ sư đồng ruộng" không chuyên nhưng đầy nhiệt huyết.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 5.

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 6.

Ở ĐBSCL rất dễ bắt gặp hình ảnh cán bộ nông nghiệp xã xuống tận nơi hướng dẫn nông dân trồng trọt

Các buổi tập huấn kiến thức canh tác lúa do hội tổ chức không còn là những buổi họp lý thuyết khô khan. Một cán bộ tại Hội Nông dân xã An Phước, tỉnh Đồng Tháp, cho biết: "Bà con cần cái gì cụ thể, hiệu quả nhanh. Mình phải mời được kỹ sư nông nghiệp về tận đồng, chỉ cách ủ phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa học, hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc "4 đúng"; hay kỹ thuật sạ hàng, ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước".

Đặc biệt, hội thường xuyên tổ chức cho nông dân tham quan những mô hình sản xuất lúa hiệu quả, như mô hình "1 phải, 5 giảm" (phải dùng giống xác nhận; giảm giống, giảm phân bón, giảm thuốc trừ sâu, giảm nước, giảm thất thoát sau thu hoạch), hay liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị…

Cán bộ cơ sở: Cầu nối chính sách đến người dân - Ảnh 7.

Sự đồng hành của cán bộ cơ sở đã giúp nông dân thay đổi tập quán sản xuất

"Nhờ các buổi tập huấn và tham quan các mô hình, tôi đã chuyển từ sản xuất theo kinh nghiệm trồng lúa 30 năm nay sang sản xuất theo khoa học đồng thời, áp dụng các kỹ thuật vào trồng lúa như: tưới ngập khô xen kẽ, sử dụng thiết bị máy không người lái trong giám sát cây lúa…. Vì vậy, trong 2 vụ lúa vừa qua, tôi giảm chi phí khoảng 20% nhưng lợi nhuận lại tăng 12%" – ông Trần Văn Tám, ngụ xã An Phước, nói.

Tuyên truyền chính sách đến người dân

Theo Sở Nội vụ tỉnh Vĩnh Long, sau sáp nhập tỉnh quy mô dân số trên 4,2 triệu người, lực lượng lao động chiếm khoảng 66% dân số. Từ đầu năm đến nay, tỉnh đã có 6.189 người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt tỉ lệ 121,35% so với chỉ tiêu giao là 5.100 lao động. Trong đó thị trường Nhật Bản 5.329 người, Hàn Quốc 122 người; Đài Loan (Trung Quốc) 568 người, các quốc gia khác 170 người.

Hiện nay có hơn 200 lao động đang tham gia học tiếng Hàn tại Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Vĩnh Long và lao động đăng ký dự thi theo Chương trình EPS năm 2025 (chủ yếu ở ngành sản xuất chế tạo và nông nghiệp).

Người lao động tham gia đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có thu nhập ổn định, từ 25-45 triệu đồng/người/tháng, tùy theo từng đơn hàng mà người lao động tham gia.

Để đạt được kết quả trên, thời gian qua, tỉnh Vĩnh Long đã thực hiện nhiều giải pháp để đẩy mạnh hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong đó là ban hành chỉ thị của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đẩy mạnh hoạt động đưa lao động tỉnh Vĩnh Long đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, các chính sách cho vay vốn, chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền đến người dân người lao động nắm được chính sách và cơ hội việc làm ngoài nước.