Cổ vật - Di sản quốc gia (*): Bảo vật hé mở những bí ẩn lịch sử

Phù điêu Nữ thần Uma được tìm thấy trong đợt khai quật tháp Vĩnh Hưng năm 2002 đã được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2024

Di tích tháp Vĩnh Hưng được Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) quyết định xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1992, thuộc ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu (cũ), nay là tỉnh Cà Mau.

Phù điêu trong tháp cổ ngàn năm

Tháp được xây dựng với cấu trúc đơn giản và mộc mạc trên mảnh đất rộng, cao hơn mặt ruộng hiện tại là 50 cm, có chiều dài 6,9 m (hướng Bắc - Nam), chiều rộng 5,6 m (hướng Đông - Tây), chiều cao trên 8,2 m. Toàn bộ 3 mặt Đông - Nam - Bắc được xây bằng gạch, kết dính với nhau bằng một loại keo thực vật mà không cần đến các chất liệu xi-măng hay vôi vữa như ngày nay. Đây là tháp có kiến trúc thuộc nền văn hóa Óc Eo duy nhất còn sót lại ở Tây Nam Bộ.

Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ người Pháp như học giả Henri Parmentier, Louis Malleret đã dành nhiều thời gian khảo sát và khai quật khảo cổ tại tháp Vĩnh Hưng. Năm 1990, ông Nguyễn Duy Tỳ, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ và Bảo tàng tỉnh Minh Hải (cũ) thám sát di tích này và phát hiện một số hiện vật như đầu tượng Phật bằng đồng, một cánh tay (có bàn tay còn đủ năm ngón), một đinh ba lửa, bàn nghiền. Bảo tàng Bạc Liêu lúc đó còn sưu tập thêm một bàn tay bằng sa thạch, một đoạn thân tượng, một thân nữ thần cao 61 cm và một đầu tượng bằng đồng 4 mặt cao 8,3 cm.

Tháng 3-2002, TS Bùi Chí Hoàng, Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ chủ trì, phối hợp với Bảo tàng Bạc Liêu tổ chức khai quật diện rộng xung quanh chân tháp. Cuộc khai quật này đã thu được một bộ sưu tập vô cùng quý giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quý, ngói và nhiều loại hình mảnh gốm vỡ, than tro, tàn tích động vật.

Phù điêu Nữ thần Uma cũng được tìm thấy trong đợt khai quật khảo cổ này. Bức phù điêu được đánh giá là mang giá trị đặc biệt với tạo dáng hình lá đề dùng để đặt ở các góc kiến trúc chỉ mới tìm thấy được tại tháp Vĩnh Hưng, chưa gặp trong các kiến trúc thời kỳ Văn hóa Óc Eo - Phù Nam và Chân Lạp ở vùng Nam Bộ.

Cổ vật - Di sản quốc gia (*): Bảo vật hé mở những bí ẩn lịch sử - Ảnh 1.

Phù điêu Nữ thần Uma được tìm thấy trong đợt khai quật tháp Vĩnh Hưng. Ảnh: CỤC DI SẢN VĂN HÓA

Các tượng Nữ thần Uma hiện lưu giữ ở một số bảo tàng đều được thể hiện chủ yếu dưới hình thức tượng tròn, tư thế đứng, như tượng Nữ thần Uma bằng đá sa thạch, thế kỷ VIII-X ở Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng. Tượng Nữ thần Durga (tên gọi khác của Nữ thần Uma) bằng đá sa thạch, thế kỷ VII-VIII ở Bảo tàng Lịch sử TP HCM (phát hiện tại tỉnh Trà Vinh), có 4 tay đứng trên một bệ liền, trên bệ có tạc hình đầu một con trâu. Tượng Nữ thần Uma Mahisasuramardini ở Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM là tượng tròn, tư thế đứng trên đầu trâu. Nhưng đối với tượng Nữ thần Uma được tìm thấy ở tháp Vĩnh Hưng lại được thể hiện dưới dạng phù điêu hình lá đề, ở giữa lá đề tạc hình Nữ thần Uma ngồi trên đầu trâu. Đây chính là sự độc đáo của phù điêu Nữ thần Uma mà Bảo tàng Bạc Liêu đang lưu giữ.

Hình ảnh Nữ thần Uma chạm khắc trên phiến đá hình lá đề tìm thấy ở tháp Vĩnh Hưng cho thấy một phong cách nghệ thuật tạo hình của cư dân văn hóa Óc Eo, đó là bước chuyển tiếp từ tượng tròn qua phù điêu, nghĩa là nghệ thuật tạo hình được chuyển từ không gian 3 chiều qua không gian 2 chiều.

Giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa

Theo đánh giá của các chuyên gia, từ những cuộc thám sát, khai quật khảo cổ và nhiều hiện vật thu được tại tháp Vĩnh Hưng, nhất là đợt khai quật vào tháng 3-2002, cho thấy được di chỉ cư trú của cư dân cổ văn hóa Óc Eo trên vùng đất Vĩnh Hưng, niên đại và các giai đoạn của di tích, tháp Vĩnh Hưng trong bối cảnh văn hóa Óc Eo ở vùng đồng bằng Nam Bộ.

Cụ thể, các hiện vật thu được tại tháp chứng tỏ có cộng đồng cư dân cư trú lâu dài ở khu vực Vĩnh Hưng và dàn trải trên một không gian rộng hơn khu vực đã khai quật. Đặc biệt, bộ sưu tập các loại hình đồ gốm mang những đặc điểm của loại hình di vật thuộc văn hóa Óc Eo phát triển và thuộc về giai đoạn muộn như nồi bụng tròn, nắp gốm hình chóp, cà ràng, chum nhỏ, gốm men nâu, gốm men da bò, mảnh gốm cứng (sành)... Như vậy, vào khoảng thế kỷ IV trước Công nguyên đã có một cộng đồng dân cư trú ở vùng đất này.

Cổ vật - Di sản quốc gia (*): Bảo vật hé mở những bí ẩn lịch sử - Ảnh 2.

Tháp Vĩnh Hưng - nơi cất giữ những hiện vật khảo cổ rất giá trị. Ảnh: CỤC DI SẢN VĂN HÓA

Và lịch sử vùng đất Vĩnh Hưng không thể chỉ đơn giản có niên đại từ cuối thế kỷ X. Tháp cổ Vĩnh Hưng đã gắn liền với sự tồn tại và suy vong của cộng đồng cư dân đã từng sinh tụ trên vùng đất này. Diễn biến lịch sử sau thế kỷ XI có thể có sự thay đổi lớn, có thể đã có một tiếp biến văn hóa hoặc thay thế chủ nhân trong từng sự đứt gãy lịch sử cũng được thể hiện qua bộ sưu tập tượng đồng tìm thấy trong bồn nước thiêng.

Dấu tích văn hóa của quốc gia cổ đại Phù Nam

Nền Văn hóa Óc Eo là dấu tích văn hóa vật chất của quốc gia Phù Nam - một quốc gia cổ đại ra đời sớm nhất, có quá trình tồn tại và phát triển lâu dài nhất, mạnh nhất, có ảnh hưởng lớn nhất ở Đông Nam Á trong nhiều thế kỷ.

Văn hóa Óc Eo được hình thành bằng sự kế thừa, phát triển văn hóa bản địa và sự du nhập của các nền văn hóa bên ngoài như Ấn Độ, Ả Rập, Trung Hoa... đặc biệt là văn hóa Ấn Độ, chủ yếu Phật giáo và Hindu giáo. Phật giáo và Hindu giáo được du nhập vào vương quốc Phù Nam thông qua con đường thương mại, giao lưu trao đổi các vật phẩm chủ yếu là đường biển như tiền, đồ trang sức, hình chạm khắc, và sau đó là các tượng nhỏ được các thương nhân và giáo đoàn mang tới. Từ đó, các tôn giáo mới này đã nhanh chóng kết hợp, hòa đồng với tín ngưỡng bản địa, góp phần thúc đẩy sự hình thành các trung tâm tôn giáo, văn hóa, cũng đồng thời là trung tâm kinh tế - chính trị lớn của vương quốc Phù Nam.

Theo nhận định của các nhà khoa học, cư dân cổ Vĩnh Hưng thời Óc Eo là những người đầu tiên khai phá vùng đất này sau khi nước biển rút, chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, đã tồn tại trong thời gian dài khoảng 1.000 năm từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII, trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau.

Các nhà khoa học cũng cho rằng với phù điêu tạc hình Nữ thần Uma chiến thắng quỷ trâu, vốn là loại phù điêu được chế tác để đặt ở các góc kiến trúc rất phổ biến trong văn hóa Champa, chưa gặp trong các kiến trúc thời kỳ văn hóa Óc Eo - Phù Nam và Chân Lạp ở vùng Nam Bộ, có thể phần nào cho thấy vào giai đoạn cuối khoảng thế kỷ X-XIII, cư dân cổ Vĩnh Hưng đã có mối giao lưu văn hóa với Champa. 

(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 27-12