Dự báo "nóng": Nước giảm, nước tăng tiếp lãi suất và đáp án chung
(NLĐO) - Động thái điều hành lãi suất trái ngược giữa các ngân hàng trung ương tuần qua cho thấy các nền kinh tế chịu nhiều chi phối bởi những yếu tố trong nước. Đó là gì?
Ông Konstantin Veit, Công ty quản lý đầu tư PIMCO (Mỹ), nhận định sự khác biệt trong điều hành chính sách tiền tệ giữa các quốc gia đang dần trở nên hợp lý. Trước đây, các ngân hàng trung ương còn rất nhiều dư địa để thắt chặt chính sách; còn giờ đây, các nước đang ở những chu kỳ lãi suất khác nhau nên sẽ có những quyết định khác nhau.
Nơi tăng, nơi giảm, nơi đứng yên
Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) ngày 15-6 tăng lãi suất thêm 0,25 điểm % lên mức 3,5% và phát tín hiệu sẽ tiếp tục nâng lãi suất trong cuộc họp vào ngày 27-7, trừ phi có sự thay đổi lớn trong các số liệu kinh tế. ECB cũng cảnh báo sẽ mất nhiều thời gian để khống chế lạm phát.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell. Ảnh: New York Times
Trước đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quyết định tạm dừng tăng lãi suất sau rất nhiều đắn đo để đánh giá tác động của những đợt tăng trước đó. Với quyết định này, lãi suất của Mỹ duy trì ở phạm vi 5%-5,25%. Dẫu vậy, FED cũng đưa ra dự báo về 2 đợt tăng lãi suất thêm 0,25 điểm %/đợt vào nửa cuối năm nay. Dự kiến, cuộc họp tiếp theo của FED diễn ra vào ngày 25 và 26-7.
Ngày 20-6, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) tiếp tục cắt giảm thêm 2 loại lãi suất quan trọng trong bối cảnh đang tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi các ngân hàng đầu tư như Goldman Sachs, JPMorgan Chase đều hạ dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm nay. Cụ thể, PBOC giảm 0,1 điểm % đối với lãi suất cho vay kỳ hạn một năm xuống 3,55% và hạ lãi suất cơ bản đối với khoản vay 5 năm từ 4,3% xuống 4,2%. Việc này được thực hiện sau một số động thái nới lỏng tiền tệ khác vào tuần trước.

Người dân qua lại tại khu mua sắm ở TP Thượng Hải - Trung Quốc. Ảnh: Reuters
Trong khi đó, tại Nhật Bản, nơi lạm phát vẫn cao hơn mục tiêu, ngân hàng trung ương lại giữ nguyên chính sách siêu nới lỏng tiền tệ.
Ông Carsten Brzeski, Giám đốc vĩ mô toàn cầu của Ngân hàng ING (Đức), nhận định động thái mới nhất của các ngân hàng trung ương cho thấy sự khác biệt mới về cách tiếp cận chính sách tiền tệ, đồng thời cho thấy nền kinh tế toàn cầu không còn diễn biến đồng bộ mà vận động theo những chu kỳ rất khác nhau.
Tự cứu mình
Ở châu Âu, lạm phát đã giảm nhưng vẫn cao hơn mục tiêu của ECB. Trường hợp này tương tự tại Anh khi Ngân hàng trung ương Anh (BOA) dự kiến tăng lãi suất vào tuần tới, sau khi dữ liệu lao động được công bố cho thấy tình hình khá tích cực.
Trong khi đó, Trung Quốc đang hồi phục kinh tế một cách chậm chạp với nhu cầu trong và ngoài nước đều suy yếu, buộc các nhà quản lý phải nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích hoạt động kinh tế. Tại Nhật Bản, quốc gia trải qua nhiều năm giảm phát, ngân hàng trung ương cho biết lạm phát dự kiến giảm vào cuối năm nay và quyết định chưa bình thường hóa chính sách.
Ông Erik Nielsen, cố vấn kinh tế trưởng tại Tập đoàn ngân hàng và tài chính UniCredit (Ý), cho rằng mỗi ngân hàng trung ương đều đang cố gắng giải quyết vấn đề cho nền kinh tế của riêng mình. Theo đài CNBC, nhìn chung động thái từ các ngân hàng trung ương trên thế giới thời gian gần đây đều tác động đáng kể đến thị trường.
Trên thị trường trái phiếu, lợi suất trái phiếu Đức kỳ hạn 2 năm chạm mức cao nhất trong 3 tháng vừa qua do nhà đầu tư kỳ vọng ECB sẽ tiếp tục chính sách thắt chặt trong ngắn hạn. Trong khi đó, khi được hỏi cảm nhận về động thái tạm dừng tăng lãi suất của FED, Chủ tịch ECB Christine Lagarde nói rõ: "Chúng tôi không nghĩ đến việc tạm dừng. Chúng tôi chưa đến đích".
Các nhà hoạch định chính sách cho biết họ không muốn vội vàng tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến chống lạm phát, ngay cả khi tỉ lệ lạm phát hằng năm của khu vực đồng Euro đã giảm từ mức đỉnh hai con số vào cuối năm ngoái xuống 6,1% trong tháng 5-2023.

Quảng cáo việc làm trên cửa sổ nhà hàng ở Los Angeles, bang California - Mỹ. Ảnh: EPA-EFE
Bà Lagarde nhấn mạnh tác động ngày càng tăng của việc tăng lương đối với lạm phát. "Áp lực tiền lương đang trở thành một nguồn lạm phát ngày càng quan trọng" - bà Lagarde nói. Theo bà, chi phí tiền lương cao hơn chính là sự giải thích cho việc lạm phát cơ bản, không bao gồm chi phí năng lượng và thực phẩm, dự kiến cao hơn trong hai năm tới.
ECB dự báo lạm phát toàn phần sẽ ở mức trung bình 5,4% trong năm nay và kỳ vọng lạm phát trong hai năm tới ở mức 2,2%, dù bà Lagarde cho rằng mức này là "không khả thi".
Đáp án chung của những động thái khác biệt
Khi lạm phát chậm lại, câu hỏi "thắt chặt chính sách đến mức nào là hợp lý" trở nên khó định lượng. Nếu thắt chặt quá mức có thể kìm hãm nền kinh tế nhiều hơn mức cần thiết và gây ra hoặc làm trầm trọng thêm suy thoái kinh tế. Nếu ngược lại, có thể khiến lạm phát trở thành vấn đề dai dẳng, không thể giải quyết được tận gốc. Đây là thách thức mà các ngân hàng trung ương trên toàn cầu phải đối mặt.
Theo báo The New York Times, một số nhà kinh tế cảnh báo "sớm muộn gì ECB cũng đối mặt tình huống tương tự FED". "FED đang đi trước ECB và kinh tế Mỹ cũng đi trước Eurozone vài quý. Điều này có nghĩa chậm nhất là sau cuộc họp vào tháng 9-2023, ECB sẽ phải quyết định có tạm dừng tăng lãi suất hay không" - ông Brzeski chỉ ra.

Trụ sở Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) tại Frankfurt, Đức. Ảnh: Reuters
Ngày 14-6, FED cho biết đang dành thời gian để đánh giá xem nền kinh tế Mỹ đang phản ứng thế nào với tốc độ tăng lãi suất nhanh trong thời gian qua song các nhà hoạch định chính sách vẫn cảnh báo khả năng có đợt tăng lãi suất mới. Động thái như vậy đã diễn ra gần đây ở Úc và Canada, nơi các ngân hàng trung ương giữ lãi suất ổn định trong một thời gian ngắn trước khi tiếp tục tăng.
Chủ tịch ECB Christine Lagarde cho hay các nhà hoạch định chính sách biết phải duy trì lãi suất ở mức nào khi có đầy đủ dữ liệu. Còn các nhà giao dịch dự đoán ECB sẽ quyết định dừng tăng lãi suất vào cuộc họp trong tháng 9 hoặc nhiều khả năng là vào tháng 10 sắp tới.
Ông Claus Vistesen, nhà kinh tế trưởng khu vực đồng Euro tại Công ty tư vấn nghiên cứu kinh tế Pantheon Macroeconomics (Anh), dự đoán ECB sẽ có thêm 2 lần tăng lãi suất nữa vào tháng 7 và tháng 9-2023 với mức 0,25 điểm %/lần, nâng lãi suất lên mức 4% trước khi dừng tăng. Còn các nhà kinh tế tại ngân hàng Berenberg và Commerzbank kỳ vọng ECB sau một lần tăng nữa sẽ dừng tăng lãi suất và giữ nguyên mức 3,75% trong suốt năm 2024.

Chủ tịch ECB Christine Lagarde. Ảnh: EPA
Tháng 5 vừa qua, ECB đã giảm tốc độ tăng lãi suất khi thừa nhận tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ đối với nền kinh tế khu vực thông qua các điều kiện cho vay hạn chế hơn. ECB cũng thừa nhận nếu điều kiện tài chính được thắt chặt hơn thì dự kiến sẽ làm giảm nhu cầu hơn nữa.
Song song với việc phát tín hiệu lãi suất sẽ còn tăng, ECB cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của khu vực về mức 0,9% trong năm nay và 1,5% trong năm tới. Dù thế nào đi nữa, các quyết định tiếp theo sẽ phải bảo đảm lãi suất cơ bản được điều chỉnh đến mức đủ để kịp thời đưa lạm phát trở lại mức mục tiêu là 2% và các mức lãi suất này sẽ được duy trì trong thời gian cần thiết.
Theo ghi nhận của phóng viên Báo Người Lao Động, tính đến thời điểm hiện tại, một loạt ngân hàng thương mại đã giảm lãi suất tiền gửi kỳ hạn dưới 6 tháng về dưới 4,75%/năm. Đồng thời, lãi suất trung dài hạn cũng được giảm.
Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LPBank) là ngân hàng mới nhất vừa giảm khá mạnh lãi suất huy động với mức 0,8 điểm % so với trước đó ở kỳ hạn dài. Như vậy, lãi suất huy động kỳ hạn 6-9 tháng giảm từ 6,8%/năm xuống chỉ 6%/năm. Lãi suất cao nhất tại LPBank hiện là 7,2%/năm, thay vì mức 7,4%/năm trước đây.
Trước đó, các ngân hàng thương mại nhà nước như Agribank, BIDV, Vietcombank, VietinBank cũng giảm lãi suất ngắn hạn xuống mức thấp nhất chỉ cò 3,4%/năm cho kỳ hạn 1-2 tháng và 6,3%/năm khi gửi tiền từ 12 tháng trở lên.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết đến nay, về cơ bản mặt bằng lãi suất đã ổn định, lãi suất tiền gửi và cho vay mới có xu hướng giảm dần. Cụ thể, lãi suất tiền gửi bình quân của các ngân hàng thương mại ở mức khoảng 5,8%/năm (giảm 0,7 điểm % so với cuối năm 2022); lãi suất cho vay bình quân VNĐ khoảng 8,9%/năm (giảm 1 điểm % so với cuối năm 2022).
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và mục tiêu chính sách tiền tệ; tiếp tục khuyến khích các tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Thái Phương