SÁNG TỎ LĂNG MỘ TRIỀU NGUYỄN: Vì sao vua Tự Đức phải “kiểm điểm”?
(NLĐO) - Mặc dù có nhiều vợ nhưng vua Tự Đức không có con kế nghiệp nên ông tự soạn nội dung văn bia cho mình như một bản tự kiểm điểm trước tông miếu xã tắc và thần dân trăm họ
Mặc dù có nhiều vợ nhưng vua Tự Đức không có con kế nghiệp nên ông tự soạn nội dung văn bia cho mình như một bản tự kiểm điểm trước tông miếu xã tắc và thần dân trăm họ
Tự Đức (1829-1883) là hoàng đế thứ 4 và là vị vua có thời gian trị vì lâu nhất của nhà Nguyễn với 36 năm. Lăng vua Tự Đức có tên gọi là Khiêm lăng, nằm ở bờ Nam sông Hương, thuộc phường Thủy Xuân, TP Huế. Lăng có diện tích gần 220 ha, riêng nội lăng khoảng 13,5 ha.
Con đường dẫn lên Khiêm lăng giờ đây trở thành tuyến đường du lịch nổi tiếng xứ Huế bởi mùi thơm và sắc màu của nhiều loại hương.
Theo tiền lệ các vua nhà Nguyễn khi còn đương triều, Tự Đức đã cho xây dựng cung điện thứ 2 của mình làm nơi nghỉ ngơi và phòng khi đột ngột ra đi. Sau nhiều năm tìm kiếm, các quan địa lý đã chọn được cuộc đất tốt "đất tốt vạn năm" tại ấp Trâm Bái, làng Dương Xuân, huyện Hương Thủy (nay Thủy Xuân, TP Huế).
Đến tháng 12-1864, lăng được khởi công xây dựng với tên gọi ban đầu là "Vạn Niên Cơ".
Lúc sinh thời, Tự Đức chỉ thiết kế hơn nửa đồ án quy hoạch Khiêm Cung - tức chỉ bao gồm các công trình để làm nơi nghỉ ngơi, giải trí chứ chưa cho xây những công trình dành cho người đã chết như sân Bái Đình, Huyền cung hay huyệt mộ. Và trong khoảng 16 năm sau khi xây dựng xong (1867-1883) nó là một ly cung, sau đó mới trở thành khu lăng tẩm.
Ngày 16-6 năm Quý Mùi (19-7-1883), vua Tự Đức băng hà, đến tháng 8-1883, Bộ Công mới cho xây đường Toại đạo và Huyền cung. Nhưng đến ngày 2 tháng Chạp năm Quý Mùi (30-12-1883) mới làm lễ an táng nhà vua. Sau đó, Bộ Công tiếp tục xây dựng đến tháng 9 năm Giáp Thân (tháng 10-1884). Trong khu vực Khiêm lăng sau này còn xây thêm lăng vua Kiến Phúc (con nuôi vua Tự Đức) và lăng bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu.
Về bố cục, nhìn chung Khiêm lăng được chia thành 2 trục là lăng và tẩm; đồng thời bổ sung kiến trúc vườn cảnh ở mặt trước, bao quanh hồ Lưu Khiêm, nên tổng thể khu lăng trông mềm mại, nên thơ hơn rất nhiều.
Ngoài 2 trục lăng chính thì Khiêm Thọ lăng (mộ Lệ Thiên Anh Hoàng hậu) và Bồi lăng (nơi an táng vua Kiến Phúc – con nuôi Tự Đức) đều là những lăng mộ được táng vào sau, không theo quy hoạch từ đầu nên đã ảnh hưởng đến tổng thể kiến trúc của lăng Tự Đức.
Mặc dù có nhiều vợ nhưng vua Tự Đức không có con kế nghiệp nên vào năm 1871, ông đã tự soạn nội dung văn bia cho mình và đặt tên là "Khiêm Cung ký" gồm 4.935 chữ Hán như một bản tự kiểm điểm của ông trước tông miếu xã tắc và thần dân trăm họ. Đến năm 1875 thì cho khắc vào hai mặt tấm bia đá Thanh hiện dựng tại Bi Đình.
Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên để làm tấm bia này, Bộ Công phải điều 1.000 biền binh ra tận núi Nhồi (Thanh Hóa) khai thác đá vận chuyển vào Huế và phải huy động thêm hàng trăm thợ đá thay nhau chế tác.
Theo đánh giá, lăng Tự Đức nằm ở một thung lũng hẹp, một nơi có đủ cả đất bằng, có núi, có khe với những công trình nằm trên các bình độ cao thấp khác nhau, hòa quyện với thiên nhiên. Khiêm lăng "Tứ bề núi phủ mây phong/Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên". Ở đây có thông reo, suối chảy, có hồ, có đình, có tạ, có những tòa điện thâm nghiêm… tạo thành khúc nhạc trầm bổng trong kiến trúc xây dựng.
Cách Khiêm lăng không xa, Ứng lăng là điểm đến không thể thiếu của du khách trong các tour du lịch tham quan Quần thể di tích cố đô Huế. Ứng Lăng – nơi an nghỉ của vị vua thứ 12 là Khải Định (1885-1925), vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn xây dựng lăng mộ nguy nga, đồ sộ nằm trên sườn núi Châu Chữ, xã Thủy Bằng (TP Huế).
Với thiết kế mặt quay về hướng Tây Nam, toàn bộ không gian rộng lớn quanh lăng đều có rừng thông bao phủ nên Ứng lăng như một tòa lâu đài mang dáng dấp Tây Âu thời trung cổ khá nổi bật. Mặt bằng xây dựng lăng hình chữ nhật (117 m x 48,5 m), có hàng rào cao 3 m bảo vệ.
Toàn bộ khu tẩm điện và lăng mộ hòa chung với nhau thành 1 trục thống nhất, bố trí trên 7 tầng sân với 127 bậc cấp xây gạch. Tầng dưới cùng là con đường chạy qua trước mặt lăng, vượt qua 37 bậc cấp mới đến cửa chính. Hệ thống bậc cấp chia thành 3 lối đi, 2 bên thành bậc đắp nổi 4 con rồng rất lớn, tư thế bò từ trên xuống. Qua khỏi cửa chính là tầng sân thứ 2, hình chữ nhật, lát gạch ca rô.
Qua tiếp 29 bậc cấp nữa là sân Bái đình. Nghi môn kiểu tam quan đồ sộ ở phía trước. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng gồm quan văn, quan võ, binh lính, ngựa, voi tạc bằng đá, đứng chầu. Bi đình đặt ở giữa phía cuối sân. Nhà bia xây hoàn toàn bằng bê tông, chia hai tầng mái, lợp ngói ardoise. Trong bi đình là tấm bia bằng đá Thanh đặt trên bệ đá kiểu chân quỳ khắc bài văn ca ngợi công đức vua Khải Định.
Lăng vua Khải Định là sự kết hợp hài hòa giữa dòng kiến trúc Đông – Tây, Á – Âu, Kim – Cổ. Ở đó có thể dễ dàng bắt gặp những cây thánh giá ở hàng rào xung quanh, bên cạnh là những tòa hoa sen của Phật giáo. Cổng lăng chia thành 3 lối ra vào với những trụ cổng hình tháp nhưng lại được đặt cạnh bên những trụ đèn là hoa văn truyền thống đình làng miền Bắc, còn các cửa sắt mang đậm nét kiến trúc phương Tây.
Cung Thiên Định là công trình chính nằm ở vị trí cao nhất và quan trọng nhất của lăng, được xây dựng vô cùng công phu và tinh xảo bởi những tấm phù điêu khảm sành sứ mua từ Trung Hoa, Nhật Bản. Thiên Định cung trông như một tòa lâu đài tráng lệ, có cấu trúc 3 gian, trong đó gian giữa là Khải Thành Điện đặt án thờ và chân dung vua Khải Định. Hai bên là nhà Tả Hữu Trực phòng dành cho lính hộ lăng. Sau án thờ là Huyền Cung (mộ vua), trong cùng là Khám thờ đặt bài vị nhà vua.
Toàn bộ điện Khải Thành được trang trí bằng các hoa văn, phù điêu được đặt trong các ô hộc hình vuông, hình chữ nhật phủ kín các mảng tường. Những người thợ thời ấy đã biến Thiên Định cung trở thành biểu tượng, đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh màu.
Đặc biệt ở đây có ba bức bích họa tuyệt đẹp, ảnh hưởng mô-tip trang trí của phương Tây với tên gọi "Cửu Long ẩn vân". Tương truyền rằng để vẽ bức họa này, nghệ nhân Phan Văn Tánh đã phải cho kê một cái giá cao sát trần điện, sau đó miệng ngậm cây cọ cùng với tứ chi mỗi chỗ một cây vẽ cùng một lúc như rồng bay phượng múa.
So với những lăng tẩm các vị vua khác của triều Nguyễn thì đường toại đạo và nơi an nghỉ của vua Khải Định cùng hoàng hậu (Huyền Cung) lại không cần bảo mật. Dựa trên những bức ảnh lễ tang vua Khải Định, các nhà nghiên cứu khẳng định rằng đường toại đạo bắt đầu từ những bậc cấp phía bên ngoài cửa chính của Thiên Định cung, chạy xuyên suốt vào cung điện và dừng ở vị trí trung tâm tòa nhà, đó là nơi an táng thi hài vua.