Đánh rơi tiền tỉ ngoài đồng
Thất thoát trong, sau khi thu hoạch lúa ở ĐBSCL tưởng chừng là “chuyện nhỏ”, “chuyện xưa như trái đất” hay “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Thế nhưng, “chuyện nhỏ” này làm thất thoát số tiền tương đương mức thu ngân sách hàng năm của vài tỉnh.

Phơi lúa ở ĐBSCL
Tiền tỉ “rơi vãi” từ ngoài đồng về nhà
Theo con số thống kê của các nhà khoa học, tỉ lệ thất thoát trong và sau khi thu hoạch ở ĐBSCL hiện nay gây tổn thất từ 10- 14% sản lượng lúa.
Như vậy, nếu tính sản lượng lúa năm 2010 ở ĐBSCL đạt 21,5 triệu tấn thì đã có khoảng hơn 2 triệu tấn lúa bị “rơi vãi” ngoài đồng ruộng và quá trình bảo quản chế biến.
Nếu chỉ tính giá lúa thấp nhất hiện nay ở mức 5.000 đ/kg thì với hơn 2 triệu tấn lúa “rơi vãi” năm 2010, số tiền của nông dân bị “thất thoát, đánh rơi” từ ngoài đồng về đến nhà đã có giá trị khoảng hơn 10.000 tỉ đồng (500- 600 triệu USD), tương đương mức thu ngân sách 3- 5 tỉnh có mức thu trung bình hiện nay.
Tiến sĩ Nguyễn Phú Sơn- Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL tính toán: “Chỉ công đoạn gặt lúa gây ra thất thoát khoảng 400.000- 600.000 tấn lúa ở ĐBSCL mỗi năm. Giai đoạn phơi khô lại tạo ra thêm thất thoát vật chất và giảm sút chất lượng. Tỉ lệ thất thoát lúa vụ Đông Xuân ở mức 6- 9,5%, Thu Đông ở mức từ 1%, vụ Hè Thu là 3,5%.
Nguyên nhân khiến tỉ lệ thất thoát lúa ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng là do phần lớn người nông dân đều phải gặt lúa bằng tay, tình trạng thiếu nhân công ở một số khu vực nên việc gặt lúa bị đẩy lùi tới khi lúa đã quá chín gây thất thoát lớn. Nông dân thường rất khó trữ được lúa do không có sân phơi và nơi trữ lúa. Khi không bán được lúa, gặp trời mưa là lúa bị ẩm, mốc. Hiện nay, các khâu phơi, vận chuyển, bảo quản của nông dân vẫn còn yếu kém khiến lượng lúa tiếp tục bị tổn thất thêm.
Con số thống kê các tỉnh ĐBSCL hiện có khoảng 5.000 chiếc máy gặt đập liên hợp (GĐLH) đang được sử dụng, chỉ đáp ứng được 30% diện tích gieo sạ của toàn vùng.
Tiến sĩ Lê Văn Bảnh- Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL cho biết: Phần lớn nông dân có diện tích đất nhỏ, lại manh mún nên khó đưa máy GĐLH vào đồng ruộng. Thêm vào đó, giá máy khá cao, việc trợ giá để nông dân mua máy còn nhiều bất cập nên việc triển khai thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp càng khó khăn. Do đó tỉ lệ thất thoát trong khâu thu hoạch lúa ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng luôn ở mức cao, trong khi tỉ lệ thất thoát ở các nước như Thái Lan chỉ từ 3- 4%.
Đi tìm lời giải giảm thất thoát lúa
Các chuyên gia về nông nghiệp ở các tỉnh khu vực ĐBSCL đều cho rằng để giảm tình trạng thất thoát lúa hiện nay giải pháp tất yếu vẫn là đẩy nhanh, khuyến khích cơ giới hóa nông nghiệp.
Tuy nhiên, việc thực hiện chủ trương cơ giới hóa nông nghiệp ở ĐBSCL dù đã có từ lâu lại đang gặp không ít rào cản, khiến tỉ lệ cơ giới hóa vẫn còn thấp. Nông dân muốn vay vốn ngân hàng để mua máy nông nghiệp phục vụ sản xuất cũng không hề dễ dàng. Trong khi đó, máy nông nghiệp sản xuất trong nước dù có giá thấp nhưng hay hỏng hóc, đây cũng là lý do khiến nông dân chẳng mấy “mặn mà”. Còn nếu mua máy loại tốt, chẳng hạn như máy GĐLH của Nhật thì giá từ 350- 450 triệu đồng/chiếc. Với số tiền như vậy, nông dân dù muốn cũng khó có thể mua được máy do khả năng nguồn vốn hạn hẹp.
Nhiều loại máy của nước ngoài đưa vào ĐBSCL sau một thời gian đã lộ nhiều hạn chế mà nguyên nhân chính là không thích nghi với đồng ruộng, giá cao. Một số nông dân, doanh nghiệp trong vùng dù đã chế tạo được máy GĐLH nhưng thiếu vốn, chưa chuẩn hóa.
Thực tế có những vấn đề khó khăn khi đưa máy móc vào đồng ruộng ở ĐBSCL. Phần lớn các hộ nông dân chỉ có dưới 1ha lúa, trong lúc năng suất của máy GĐLH là 3-5 ha/ngày, việc sử dụng máy trên những mảnh ruộng nhỏ khó khăn.
Để thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tỉ lệ tổn thất lúa, việc xây dựng những cánh đồng mẫu lớn (nhiều thửa ruộng ghép lại cùng xuống giống một loại, một thời điểm hiện ở một số địa phương đang triển khai thí điểm) được coi là điều kiện chính nhằm phát huy tác dụng, hiệu quả của máy móc nông nghiệp. Đồng thời khâu phơi sấy, bảo quản, chế biến, tồn trữ lúa cũng cần được đầu tư xây dựng, nhằm đảm bảo chất lượng lúa gạo, giảm tỉ lệ tổn thất.
Để thực hiện điều này, một mình nông dân sẽ không đủ sức cáng đáng mà cần sự phối hợp, liên kết, trợ giúp từ phía Nhà nước, nhà doanh nghiệp.
Ví dụ điển hình Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang đầu tư hệ thống kho, khu vực sấy và Nhà máy chế biến gạo tại Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, An Giang với công suất đủ đáp ứng cho nhu cầu vùng nguyên liệu từ 13.000- 15.000ha diện tích canh tác/năm.
Những nông dân tham gia ký hợp đồng “Hợp tác sản xuất lúa hàng hóa” với công ty sẽ được lúa giống xác nhận, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón các loại vào từng thời điểm sử dụng.
Toàn bộ các khoản đầu tư này công ty cho nông dân nợ không tính lãi trong vòng 120 ngày (từ đầu vụ đến sau thu hoạch 30 ngày). Khi thu hoạch có thể bán lúa ngay cho nhà máy với giá thu mua được niêm yết mỗi ngày hoặc có quyền gửi lúa vào kho của nhà máy miễn phí trong vòng 30 ngày và đăng ký giá mà nông dân muốn bán.
Chỉ khi những biện pháp kể trên được triển khai, thực hiện đồng bộ, tỉ lệ tổn thất lúa sẽ giảm, tình trạng nông dân ĐBSCL “đánh rơi” tiền tỉ từ ngoài đồng đến nhà sẽ không còn xảy ra.