Khám phá châu Phi huyền bí: Sống cùng bộ lạc hoang dã
LTS: Tác giả Lê Phong - tức YouTuber “Phong Bụi” - vừa đến khám phá một số vùng đất châu Phi và trải nghiệm nhiều điều thú vị, không có trong các tour du lịch
Bay gần 15 giờ và quá cảnh 2 lần, chúng tôi mới tới được thủ đô Addis Ababa của Ethiopia, đất nước phía Đông châu Phi. Rời phi trường, xe đưa chúng tôi xa dần mọi thứ quen thuộc. Càng đi, chúng tôi như càng lao ngược về quá khứ, đến nơi không đèn điện, không internet…
Omo - cái nôi của loài người
Đoạn cuối, xe không vào được nữa. Chúng tôi đi bộ theo đường đất đỏ hun hút, hai bên đầy những bụi gai và bóng người thỉnh thoảng thoáng qua như ảo ảnh.
Chúng tôi phải xin phép nhiều ngày mới được vào làng Hamer ở thung lũng Omo. Những bộ lạc ở đây chưa từng thấy người châu Á. Dân làng tò mò chạm vào tay tôi, rồi giật mình lùi lại. Họ sờ mặt, gõ nhẹ lên trán tôi như thể kiểm tra xem… có phải là người không!

Dân làng Hamer "khám phá" chai nước suối chúng tôi mang theo. Sau đó, họ dùng nó đựng thứ nước đục ngầu lấy từ dòng sông cạn.
Một đứa trẻ khóc thét lên khi thấy tôi mở nắp chai nước suối định uống. Với chúng, một vật nhìn trong suốt mà có thể uống được là điều kỳ dị. Một phụ nữ nhìn chằm chằm chai nước tôi đang cầm, rồi chỉ tay ngụ ý xin. Khi tôi dúi chai nước vào tay, bà cầm lắc nhẹ rồi đưa lên mũi ngửi. Khi biết nó có thể đựng nước, bà mừng rỡ như vừa nhận được món quà quý.
Một nhóm dân làng liền xúm lại, thay nhau "khám phá" chai nước rồi rôm rả bàn tán. Sau đó, họ kéo ra giữa dòng sông cạn, nơi chỉ còn sót vài vũng bùn. Một người đàn ông dùng tay moi hố đất nhỏ, đợi nước từ từ rỉ đầy rồi lấy lá múc từng chút vào chai nhựa tôi vừa đưa. Một cậu nhóc có lẽ quá khát đã cúi xuống uống luôn vũng nước đục ngầu…

Nguồn nước hiếm hoi của dân làng Hamer còn sót lại trên dòng sông cạn
Chỉ một chai nhựa đã làm "náo động" đến vậy thì khỏi phải nói, khi tôi lôi chiếc máy ảnh ra định chụp, dân làng phản ứng thế nào. Một phụ nữ lập tức giương súng lên khi tôi hướng ống kính máy ảnh về phía dân làng. Có lẽ với họ, "vật thể lạ" ấy có thể tiềm tàng bao mối nguy hiểm.
Một bé gái rụt rè bước đến gần tôi với ánh mắt đầy vẻ tò mò. Em đứng nhìn tôi rất lâu, sau đó chỉ vào chiếc máy ảnh rồi lùi lại cảnh giác. Tôi ngồi xuống, vừa cười thật hiền hòa vừa đưa tay ra. Em nắm lấy, nhẹ như sợi khói, rồi chạy vụt đi.
Lát sau, em quay lại, mang theo một chiếc vòng làm từ những nắp chai, võ lon... rồi đeo vào tay tôi, nghiêng đầu vừa ngắm vừa cười. Tôi hiểu rằng ở đây, chiếc vòng như thế hay chiếc lông vũ thổ dân dắt trên đầu, hình vẽ trên mặt... là một phần của niềm tin - tin vào người đối diện, tin vào những điều huyền bí nào đó.
Với thổ dân Omo, những gì chúng tôi mang theo đều lạ lẫm. Họ chuyền tay nhau săm soi chiếc thìa nhựa trong hộp phở ăn liền. Một bà cụ bật cười khi thấy tôi ăn bằng thìa. Bà bảo ở đây, thức ăn phải chạm vào tay thì mới được đưa vào bụng.
"Sống là không chết"
Buổi tối, làng Hamer không ánh đèn điện, không tiếng còi xe, chỉ có những đống lửa lập lòe và tiếng trống. Trống dội lên từ bất kỳ góc làng nào đó, kèm theo những giọng hát khản đặc. Dân làng tụ lại ngồi thành vòng tròn, mỗi người cầm một thứ gì đó, có thể là miếng da thú, khúc xương, cành cây... Trẻ con bôi đất lên mặt, chạy quanh đống lửa.
Thấy một cô gái ngồi rạch từng đường trên cánh tay cho máu rỉ ra rồi lấy đất đỏ chà lên, tôi hỏi sao phải làm vậy. "Cho đẹp... Để lấy chồng" - cô bẽn lẽn.
Cái đẹp của người dân ở đây có lẽ phải được trải qua đau đớn hay thử thách. Phụ nữ cắt môi để đeo đĩa, xỏ tai để treo dây đá. Nhiều người rạch da bụng để có vết sẹo dài hình con rắn - mà họ bảo là làm theo truyền thuyết từ tổ tiên...

Phụ nữ các bộ lạc ở thung lũng Omo thường cắt môi để đeo đĩa, xỏ tai để treo dây đá
Những ngày ở làng Hamer, tôi từng dùng "bữa cơm" với một gia đình thổ dân. Thứ họ gọi là cơm thật ra là bột trộn nước, vo lại thành viên to như nắm tay, nhúng vào chén nước tro đun với sữa. Cả gia đình ngồi thành vòng tròn, chuyền tay nhau chén nước đục như bùn.
Khi chén nước chuyển đến chỗ tôi, một mùi vị thật khó tả xộc vào mũi. Cả nhà chăm chú nhìn khách lạ, chờ đợi. Tôi ráng giữ vẻ mặt bình thản khi uống chén nước ấy - có cảm giác như nuốt thứ hỗn hợp đất trộn sữa, rồi vừa mỉm cười vừa gật gù "thưởng thức". Cả nhà cười theo, một người vỗ vai tôi. Lúc đó, tôi hiểu mình đã được họ chấp nhận.

Dân làng Hamer tụ tập khi thấy người lạ xuất hiện
Qua người phiên dịch, tôi thường lân la chuyện trò với những đứa trẻ ở làng Hamer. Có lần, tôi hỏi một cậu bé: "Lớn lên con muốn làm gì?". Em nhìn tôi, im lặng. Khi tôi lặp lại vài lần, cậu ấp úng: "Đi chăn dê." Tôi gặng hỏi: "Rồi gì nữa?". Cậu nhỏ lắc đầu.
Có lẽ, trong suy nghĩ của những đứa trẻ Hamer không hướng đến ngày mai xa xôi, không mơ ước mình sẽ làm gì to tát. Chỉ có hôm nay, và được ăn no, là đủ.
Một cụ già nói với tôi, nghe như triết lý: "Ở đây, sống là không chết". Nhưng đó là điều thực tế ở nơi không bệnh viện, không bác sĩ, không thuốc men. Trẻ em sốt cao chỉ được cạo đầu, đắp lá; người lớn đau bụng thì trùm chăn, xông khói từ bếp than. Ai qua được thì sống, không thì dân làng đưa ra bìa rừng, phủ lên đống lá...
Những người không qua được ấy không có mộ phần, không di ảnh, không nhang nhói. Thi thể họ chỉ được phủ lên một đống lá, những gì tiếp theo để mặc thiên nhiên lo liệu.

Dân làng Hamer thường xuyên canh gác, bảo vệ sự riêng tư của bộ lạc
"Ở Omo, tôi là người"
Chúng tôi rời làng Hamer khi trời chưa sáng. Một cậu bé chạy theo, tay giơ chiếc thìa nhựa dùng ăn phở hôm trước - được cẩn thận bọc trong miếng vải, như chào từ biệt khách.
Trên đường quay về, tôi mới có thời gian ngẫm ngợi những gì mình vừa trải nghiệm ở Hamer. Có lẽ ngoài những khẩu súng luôn được một số thổ dân kè kè trên vai, đó là nơi chốn không hiện diện ánh sáng văn minh song lại có đầy thông điệp được "viết" lên da thịt.
Ở Hamer, trường học không có nhưng đứa trẻ nào cũng biết cách tồn tại từ khi chưa biết nói. Sách vở không có nhưng dân làng thuộc lòng bao nghi lễ và bao điều cấm kỵ, cả những điều cần phải làm để được xem là con người.
Tôi từng trò chuyện với một thanh niên Hamer có học thức. Anh từng rời làng đi học ở thị trấn, sống tại đó 5 năm rồi quay về. Tôi hỏi tại sao, anh thổ lộ: "Ở ngoài kia, tôi là dân Omo. Còn ở đây, tôi là người". Câu trả lời của anh khiến tôi lặng đi rất lâu.

Để vào làng Hamer, chúng tôi phải được những thổ dân canh gác có vũ trang đồng ý
Đến nơi hoang dã này, tôi thấy như trở về thời nguyên thủy. Không cần danh thiếp, không màng danh phận... và không ai hỏi tôi làm nghề gì. Chỉ cần biết châm đống lửa, ăn được "bữa cơm" gia đình, sẵn sàng chia sẻ chai nước... là tôi có thể sống thân thiện với thổ dân các bộ lạc.
Giữa bao khắc nghiệt, người dân Omo vẫn sống, vẫn nhảy múa, vẫn vẽ mặt, vẫn ngước nhìn trời cảm tạ mỗi khi mưa xuống. Họ không chờ ai hỗ trợ, không mong điều thay đổi mà chỉ sống như cách tổ tiên mình đã từng.
Những gì tôi chứng kiến ở Omo không giống trong sách vở, không như trên phim ảnh và chắc hẳn không có trong những tour du lịch. Đó là một góc châu Phi trần trụi mà đẹp đến nao lòng.
"Cây cối không chọn được chỗ mọc"
Ở Omo cũng có những ngôi làng mà phụ nữ phải lấy chồng theo sự sắp đặt. Nhiều cô gái mới khoảng 15 tuổi, hôm trước còn chơi đuổi bắt bên bờ suối, hôm sau đã bị đưa đi xa vài chục cây số để làm vợ những người đàn ông hơn tuổi cha mình.
Khi tôi hỏi tại sao dân làng không phản đối chuyện sắp đặt này, một bà cụ ví von: "Cây cối không chọn được chỗ mọc".
(Còn tiếp)