Ba thị trường xuất khẩu lớn của nông sản Việt Nam
XUẤT KHẨU.- Do điều kiện tương đồng về văn hóa, gần về địa lý nên trên 70% khối lượng hàng hóa nông sản của ta được xuất khẩu sang các nước châu Á, còn với các thị trường khác như châu Phi, Mỹ, Úc... chiếm tỉ trọng tương đối thấp. Theo Thứ trưởng Bộ NN và PTNT Cao Đức Phát, xuất khẩu của ta sang những thị trường này chưa đáng kể, chưa có được thị phần của bạn chứ nói gì đến xâm nhập thị trường
Mỗi thị trường đều có cơ hội và thách thức
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trước đây toàn ngành nông nghiệp chỉ có mặt hàng gạo đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD, còn nay đã có nhiều ngành vượt con số đó. Cà phê VN đứng thứ 2 thế giới (sau Brazil), xuất khẩu năm 2001 đạt 931.200 tấn chiếm 12,15% thị trường thế giới; điều xuất khẩu đứng hàng thứ 2 (sau Ấn Độ) chiếm 18% - 20% thị trường thế giới; hạt tiêu chiếm 27% thị trường thế giới... Kim ngạch nông, lâm sản chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các chuyên gia ngành nông sản khuyến cáo, có thể tại mỗi thị trường, cơ hội và thách thức sẽ luôn đi liền với nhau. Nếu như Nga được coi là bạn hàng gần gũi giàu tiềm năng và truyền thống với yêu cầu về chất lượng sản phẩm không quá khắt khe thì lại khó khăn trong khâu thanh toán; thị trường Mỹ khắt khe về chất lượng nhưng quy định luật pháp rõ ràng; châu Phi tiềm tàng lại có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhưng sự hiểu biết của DN VN còn quá ít. Theo ông Đoàn Ngọc Bông, Phó Chủ tịch Thường trực Phòng Thương mại và Công nghiệp VN, XKNS VN vẫn còn rất nhiều đất để vươn tới. Vấn đề đặt ra là DN ta có biết cách mà vươn tới hay không?
Bán hàng thị trường cần chứ không phải bán hàng ta sản xuất được
Ông Phạm Thế Dũng, Vụ trưởng Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Thương mại, đã chỉ ra những nguyên nhân gây hạn chế tình trạng XKNS của ta trong thời gian qua là: Sản xuất vẫn còn mang tính chất phân tán về hộ gia đình, hình thức dân doanh chiếm tỉ trọng cao nên khó tránh khỏi tính tự phát trong đầu tư, chuyển dịch cơ cấu, chế biến sau thu hoạch còn yếu, các DN kinh doanh xuất khẩu còn thiếu sự phối hợp đồng bộ... Ông Dương bức xúc nhất là việc hạn chế trong thu thập, xử lý phổ cập thông tin. Theo ông, hiện nay thông tin thị trường không thiếu, về phía DN nhìn chung có điều kiện tiếp cận thông tin tốt hơn so với bà con nông dân. Đa số các DN kinh doanh xuất khẩu những mặt hàng nhạy cảm như gạo, cà phê, tiêu đã tự tiếp cận các mạng tin trong và ngoài nước để phục vụ cho kinh doanh.
Tuy nhiên, vấn đề không chỉ là chuyển tải thông tin cho các DN mà còn phải đưa thông tin tới hàng triệu bà con nông dân để giúp người dân có định hướng trong lựa chọn sản phẩm cũng như đầu tư trong sản xuất.
Chia sẻ ý kiến này, ông Đoàn Ngọc Bông công nhận: Một số DN ta còn lúng túng, khó khăn trong tìm kiếm đối tác, bạn hàng cho các sản phẩm của mình và điều này được lý giải bởi nguyên nhân chủ yếu là việc thiếu thông tin về thị trường bên ngoài, do đó dẫn đến thiếu một chiến lược tiếp cận thị trường phù hợp. Ông Bông còn cảnh báo: Hiện nay thế giới đã chuyển từ “bán sản phẩm ta sản xuất được sang bán sản phẩm thị trường cần”.
Củng cố Nga, mở rộng Mỹ, tiến tới Tanzania
Nga: Nhu cầu về nông sản rất lớn. Mỹ: Nhập khẩu nông sản với chủng loại đa dạng. Tanzania: Mỗi năm mua của VN 50% nhu cầu gạo của nước mình
Với Nga và các nước SNG, ta có kim ngạch XKNS 60-90 triệu USD/năm. Đây là thị trường truyền thống đã từng tiêu thụ một lượng lớn hàng nông sản VN (gạo, cà phê, chè, hồ tiêu...). Theo ông Sitnikov A.T, đại diện thương mại Nga tại VN, nhu cầu của Nga về hàng nông sản của VN là rất lớn, tuy nhiên phía VN mới đáp ứng được rất ít mà lại thua kém các nước khác về chất lượng nên giá thường rẻ hơn. Ông Sitnikov còn chỉ hướng hợp tác cho các DN xuất khẩu cà phê VN: “Cà phê VN xuất sang Nga chủ yếu là cà phê đen nên các công ty VN có thể chọn các hình thức hợp tác như thành lập nhà máy chế biến cà phê ở Nga, hoặc liên doanh với các nhà máy sản xuất cà phê tan đang hoạt động tại Nga để tiêu thụ sản phẩm của mình”.
Hàng năm, Mỹ phải nhập khối lượng lớn hàng nông sản với chủng loại đa dạng và yêu cầu chất lượng không quá khó tính như EU, Nhật. Vậy mà kim ngạch XKNS của ta sang Mỹ mới chỉ đạt 100 - 130 triệu USD. Lấy ví dụ mặt hàng tiêu để so sánh: Ta xuất sang châu Á là 55 - 58% nhưng sang châu Mỹ chỉ khoảng 6 - 7%; rau quả sang châu Á là 65 - 76%, sang Mỹ là 3- 4%... Nguyên nhân có thể do DN ta ngại Mỹ là thị trường mới, hơn nữa những quy định luật pháp rất hà khắc. Xóa tan nghi ngại này, ông Henry Schmick, tham tán nông nghiệp Hoa Kỳ tại VN khẳng định: “Thâm nhập vào thị trường Mỹ không khó nhưng phải tìm hiểu thật kỹ luật thương mại, cơ chế kiểm dịch...”. Ông Henry cho biết thanh long và chôm chôm là hai mặt hàng của VN đang được Mỹ nghiên cứu để nhập khẩu.
Tại hội thảo vừa nêu ở trên, có thêm một thị trường mới mẻ và nhiều mời gọi nhất là Tanzania, một nước châu Phí. Với 945.000 km2, 32 triệu dân nhưng do khí hậu và địa hình nên chỉ có 4% diện tích Tanzania có thể canh tác được. Tanzania mua gạo của VN với khối lượng 10 - 12 vạn tấn/năm (chiếm hơn một nửa nhu cầu gạo của Tanzania). Đất nước trồng rất nhiều điều với 12 nhà máy chế biến nhưng do công nghệ chưa phát triển, xuất khẩu vẫn ở dạng sơ chế nên giá rất rẻ mạt. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Chế biến thực phẩm Tanzania - ông Pius Mbawala - kêu gọi: “Các DN VN hãy sang trao đổi không những kinh nghiệm về trồng và chế biến hạt điều mà cả nhiều lĩnh vực khác như trồng trọt chế biến, hoa quả, sữa, cà phê”. Ông Musika, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Tanzania, còn khẳng định: “Tanzania có rất nhiều chính sách lý thú thu hút đầu tư. Chẳng hạn như bạn có thể mang toàn bộ lợi nhuận về VN, bạn có thể thoải mái trong sử dụng ngoại tệ và bạn được nhiều chính sách miễn giảm thuế... Chúng tôi đang mong chờ các bạn”.
Vài thông tin về ba thị trường lớn Thị trường Nga: Tính tới ngày 22-12-2000, Nga đã có 34 dự án đầu tư vào VN với tổng số vốn 1.608 triệu USD, đứng thứ 9 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam. Mặt hàng Nga nhập khẩu của VN: Dệt may 25,6%; gạo 15,6%; giày dép 13,9%; cao su 6,2%. Các mặt hàng nông sản của VN rất quen thuộc với thị trường Nga: Cà phê, chè đen, tiêu đen, gạo, cao su; nhưng đến nay vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng. Thị trường Mỹ: Tính đến ngày 20-11-2001, Mỹ có 130 dự án đầu tư tại VN với tổng số vốn đăng ký 1.019 triệu USD, đứng thứ 13 trong các nước đầu tư vào VN. Mặt hàng Mỹ nhập khẩu chính: cà phê 8,5%, hạt điều 3,9%, hạt tiêu 2,5%, gạo 1,4%, cao su 0,3%... Thị trường Tanzania: Kim ngạch xuất khẩu của ta sang Tanzania năm 1999 là 22,8 triệu USD, năm 2000 chỉ đạt 9,2 triệu USD; năm 2001 là 8,3 triệu USD chủ yếu là gạo. Tanzania mong muốn được hợp tác trao đổi với DN VN nhiều lĩnh vực khác như chế biến hạt điều, chế biến hoa quả, sữa, cà phê... (Nguồn: Bộ Thương mại)
Năm biện pháp tăng cường xuất khẩu nông sản Thứ 1: Tiếp tục thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường. Thứ 2: Nâng cao chất lượng nông sản và sức cạnh tranh bằng cách chú trọng toàn diện từ khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, bảo quản chế biến sau thu hoạch... Thứ 3: Nâng cao phương thức giao dịch thương mại nông nghiệp hiện đại, thể hiện qua sự gắn kết giữa người sản xuất và người xuất khẩu bằng các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm từ đầu vụ. Thứ 4: Tăng cường công tác thông tin thị trường và phổ cập tới bà con nông dân. Thứ 5: Công tác thị trường và xúc tiến thương mại cần được tăng cường theo hướng đa dạng hóa chủ thể tham gia có sự kết hợp giữa Nhà nước, hiệp hội ngành hàng và các địa phương. Các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng, Huế... có thể nghiên cứu xây dựng trung tâm thương mại quốc tế với quy mô từ nhỏ đến lớn để làm nơi giới thiệu sản phẩm, tạo điều kiện cho các DN xúc tiến thương mại và đầu tư. (Nguồn: Bộ Thương mại)