Bài 1: Tư duy sâu sắc, nắm bắt thời cơ
Là con của một người bình thường thì ảnh hưởng của người cha đã là to lớn. Song làm con của một người vĩ đại thì ảnh hưởng của cha mình lại càng mãnh liệt và sâu sắc hơn bao giờ hết
Tôi là đứa con duy nhất trong gia đình được hưởng một hạnh phúc lớn lao là được gần cha từ tấm bé đến khi trưởng thành. Năm 1961, lúc hai tuổi rưỡi tôi đã phải xa mẹ, khi ấy đang học đại học báo chí tại Bắc Kinh (Trung Quốc), để về sống bên cha. Kể từ đây, tôi được ngủ chung với ba cho đến tận năm học lớp bảy. Có lẽ cả cuộc đời đi làm cách mạng bận rộn và đầy hiểm nguy, đây là khoảng thời gian duy nhất cha tôi có dịp được sống với một đứa con. Mẹ tôi kể, thỉnh thoảng, rất hiếm khi ông mới có dịp tạt qua nhà thăm gia đình. Do vậy, các anh, chị tôi cũng chỉ được gần ông khi đã lớn, lúc ông được cử làm Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng.Cuộc kháng chiến 20 năm
Đến bây giờ, khi đã gần năm mươi tuổi mà trong mỗi một việc làm của mình, tôi luôn tự hỏi nếu là ba mình, ông sẽ xử lý sự việc này như thế nào. Và sau đó tôi luôn tự cố gắng làm theo cách mà tôi cảm nhận đó chính là điều mà cha bằng lòng. Cha tôi thường kể rằng: Ông học chủ nghĩa Mác - Lênin ở trong tù do những đồng chí của ông truyền thụ. Song, ông lại vượt lên những người khác ở chỗ họ chỉ học những điều thuộc về kinh điển. Còn ông, ông học chủ yếu về phương pháp luận để xem xét và giải quyết vấn đề do cuộc sống đặt ra. Chính điều ấy, cộng với khả năng tư duy của mình đã tạo cho ông sự khác biệt, vượt trội trong tư duy so với những người cùng tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong điếu văn về ông, Đảng ta đã từng đánh giá:
“Là một người Mácxít - Lêninnít chân chính, đồng chí luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi, xuất phát từ tình hình thực tế, phân tích, giải quyết những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra. Sự sáng suốt của đồng chí thể hiện nổi bật trước những bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp”.
Ông thường nhìn rất xa sự vận động, chiều hướng kết quả của sự việc. Do đó mọi quyết sách của ông đều thể hiện tầm chiến lược. Ông kể với chúng tôi rằng, năm 1954 sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, lúc cùng với các đồng chí của mình đi đến nơi có tàu đón cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết, ông thấy đồng bào hai bên đường chào đón, tiễn đưa giơ hai ngón tay lên có ý hẹn hai năm sau sẽ gặp lại mà nước mắt ông tuôn trào. Bởi ông nhìn sự việc xa hơn họ. Ông biết rằng, mai đây sẽ là sự đàn áp của kẻ thù, sẽ là máu chảy, đầu rơi: cán bộ, đồng bào ta sẽ chịu tổn thất to lớn. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta sẽ trải qua những gian nan, thử thách khốc liệt. Khi chia tay với các đồng chí đi tập kết ra miền Bắc ông đã nói với ông Lê Đức Thọ: “Anh ra nói với Bác hai mươi năm nữa ta mới gặp nhau”. Sau này, quả thật cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kéo dài hai mươi năm đúng như lời ước hẹn của ông. Và cũng với tiên liệu này, ông đã xin Bác Hồ cho được ở lại miền Nam, chấp nhận hiểm nguy, cùng lăn lộn và hy sinh với đồng bào, đồng chí để rồi từ thực tế quý giá đó đã được ông cùng các đồng chí của mình cụ thể hóa thành bản Đề cương cách mạng miền Nam (tháng 8-1956). Bản đề cương chính là linh hồn của Nghị quyết Trung ương 15 (tháng 1- 1959) của Đảng ta về đường lối cách mạng ở miền Nam.
Lịch sử rất khách quan! Lịch sử sẽ đánh giá đúng về Hiệp định Geneve. Tuy nhiên, với ba tôi, có lẽ từ bài học đau xót đó mà về sau ông đã chỉ đạo hết sức kiên quyết khi đồng chí Lê Đức Thọ nhận trách nhiệm đàm phán với Mỹ tại Paris: “Đàm phán thương lượng cái gì thì đàm phán. Vấn đề bộ đội ta ở lại chiến trường và quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam thì kiên quyết không nhân nhượng”.
Tìm đúng điểm yếu của kẻ thù
Kết quả của Hiệp định Paris đã thể hiện đúng tinh thần đó. Và kết quả đó đã xoay chuyển tình thế chiến lược của cuộc chiến hai mươi năm, tạo thời cơ thuận lợi bằng vàng cho cách mạng Việt Nam để có được Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Ông nói với tôi rằng: Thường khi gặp một vấn đề, một sự việc, người ta chỉ dừng lại ở cái biểu hiện bên ngoài, cái thuộc về hiện tượng, rời rạc. Còn với ông, khi gặp vấn đề hay hiện tượng nào đó, ông đều lật đi, lật lại, đặt nó trong các mối quan hệ để có cái nhìn toàn diện và khách quan.
Tất nhiên, để làm được như thế không đơn giản. Trong khi nhiều người, kể cả những nước lớn trong phe XHCN đều cho rằng khả năng của Mỹ là quá mạnh thì ông lại phân tích được những điểm yếu của Mỹ. Khi không ít người nghĩ rằng không thể thắng Mỹ bằng con đường bạo lực cách mạng vì làm như vậy vừa không có khả năng thắng được Mỹ mà còn có thể làm chiến tranh lan rộng “một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy cả cánh rừng to”(?), ảnh hưởng đến các nước lớn trong phe XHCN, đến hòa bình thế giới. Trong lúc con đường hòa bình đang là xu thế được nhiều người ủng hộ để giải quyết xung đột giữa đế quốc xâm lược và các dân tộc đấu tranh giành độc lập, thì ông lại nhìn thấy bằng con đường chiến tranh cách mạng, không những sẽ thắng Mỹ mà còn có thể khống chế nó, không để nó lan rộng và ảnh hưởng đến hòa bình thế giới.
|
Tôi thường trèo lên lòng ông chơi trong lúc ông làm việc. Lúc ấy, tôi không ý thức được việc mình làm lại gây ấn tượng sâu sắc cho cha mình đến vậy. Sau này khi tôi đã lớn, nhiều lúc ba tôi hỏi các chị tôi: “Sao lúc này thằng Trung nó không leo lên lòng ba để chơi nữa?”. |