Chưa kiểm soát được việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật

Hiện có khoảng 5.000 hóa chất thương mại độc hại, trong đó có từ 150 - 200 hóa chất được coi là nguyên nhân gây bệnh ung thư. Nhưng trên thị trường, một số thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) được lưu thông tự do và sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp, có nhiều loại chất mới cực độc chưa kiểm soát được

 Báo động: Cứ mỗi năm lại có thêm 1.000 hóa chất mới được phát hiện. Tổng cộng đến nay đã có khoảng 5 đến 7 triệu chất được phát hiện, trong đó có trên 80.000 loại hóa chất đang được sản xuất, lưu thông trên thị trường.

Các hóa chất BVTV gây ra rối loạn nội tiết, làm ảnh hưởng hoặc mất chức năng hoạt động của các hoóc môn trao đổi chất, sinh trưởng, sinh sản của con người và động vật. Các chất gây rối loạn nội tiết chính gồm: các chất hữu cơ clo, thuốc trừ sâu, diệt cỏ, diệt nấm, các chất hợp kim, các estrogen thực vật và tổng hợp, các chất tẩy rửa. Những chất này, có tính bền vững cao, khó bị phân hủy trong tự nhiên và có khả năng tích lũy trong môi trường, chuỗi thức ăn làm tăng nguy cơ nhiễm độc.

Các hóa chất độc hại nhất đều có tại VN.- Theo tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, Chương trình Thông tin khoa học về an toàn hóa chất, thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và công nghệ quốc gia, hiện VN là một trong những nước sử dụng nhiều thuốc BVTV nhất trên thế giới. Do thiếu kiến thức nên tình trạng ngộ độc thuốc BVTV cũng như lượng tồn dư trong môi trường tăng nhanh. Tính đến nay, cả nước có trên 10 triệu hecta đất nông nghiệp, với nhu cầu sử dụng khoảng 50.000 tấn/năm (45% là thuốc trừ sâu, 23% thuốc trừ bệnh và 32% thuốc trừ cỏ).

Theo số liệu chính thức của Bộ Thương mại, năm 2000, đã có gần 34.000 tấn thuốc BVTV thành phẩm được nhập khẩu. Đó là chưa kể tới việc nhập lậu theo con đường tiểu ngạch. Ước tính có khoảng 15 triệu tấn thuốc BVTV cực độc, được nhập lậu và lưu hành trôi nổi trên thị trường. Mặc dù hiện nay, cả nước có khoảng 50 nhà máy, công ty gia công sản xuất thuốc BVTV với tổng công suất trên 130.000 tấn/năm, vượt gấp đôi so với nhu cầu, nhưng tình trạng nhập lậu hóa chất BVTV vẫn diễn ra rất phức tạp.

Theo danh mục thuốc BVTV được phép và hạn chế dùng ở VN do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành ngày 13-3-2002, có 27 tên thuốc thương mại được pha chế từ 10 hoạt chất thuộc nhóm độc cao rất dễ gây ra độc tính cấp cho người và vật nuôi. Các thuốc này được lưu thông tự do và sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Ở nhóm các hoạt chất dễ gây độc mãn tính hoặc cấp tính cho người qua tiếp xúc trực tiếp và đặc biệt là qua lương thực, thực phẩm, có tới 71 tên thuốc được pha chế từ 7 hoạt chất độc. Nhóm hoạt chất cực độc đối với cá, rất dễ gây hại nguồn lợi thủy sản cũng có tới 21 loại thuốc từ 7 hoạt chất độc. Nhóm hoạt chất có độ bền vững cao, có nguy cơ tích lũy gây ô nhiễm môi trường có 13 hoạt chất và 82 tên thuốc thương mại. Theo phân tích của các nhà khoa học, trong số các hoạt chất độc nói trên có tới 20 hoạt chất (với 183 tên thuốc BVTV thương mại) thuộc danh mục 67 chất nghi ngờ có khả năng phá hủy nội tiết do Cục Môi trường Nhật Bản công bố. Ngoài ra, trong danh mục trên còn có 2 hợp chất hữu cơ dùng trong sơn chống hà và 6 chất dẻo dùng trong gia công nhựa. Trong danh mục này không có hoạt chất nào thuộc dạng độc bảng A, tuy nhiên những loại hóa chất BVTV nhập lậu trên thị trường hầu hết thuộc dạng cực độc, với nhiều loại chất mới chưa kiểm soát được. 

 Ý kiến của các nhà chuyên môn

TS Shinsuke Tanabe, Trung tâm Nghiên cứu môi trường biển thuộc Đại học Ehime, Nhật Bản:

Cần thay đổi tận gốc cách nghĩ về hóa chất BVTV

“Chúng ta đều đã biết về những kết quả tích cực của việc sử dụng hóa chất BVTV như: Tiêu diệt các sinh vật gây bệnh, làm tăng năng suất và bảo vệ cây trồng trước các sinh vật gây hại... Một thời gian dài chúng ta đã thổi phồng những kết quả đó. Chính vì vậy, thực trạng lạm dụng hóa chất BVTV đã xảy ra ở hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Cách đây 50 năm, chỉ có khoảng 1 triệu tấn hóa chất được sản xuất mỗi năm. Còn hiện nay sản lượng là 400 triệu tấn/năm, trong đó dùng cho nông nghiệp khoảng 4 đến 5 triệu tấn/năm. Chính tình trạng lạm dụng hóa chất BVTV đã gây ra những ảnh hưởng nguy hại đến con người và môi trường hoang dã, nhất là tại các nước duyên hải khu vực Đông Á. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy nhiều chất hóa học (cả tự nhiên và tổng hợp từ phòng thí nghiệm) có tác động mạnh đến hệ thống truyền tin hóa học, cản trở các điều khiển cho cơ thể phát triển của con người và các sinh vật. Chúng ta đã đánh giá quá thấp những tác hại của hóa chất BVTV. Vì vậy cần có sự thay đổi tận gốc cách suy nghĩ về hóa chất BVTV và đưa ra một chương trình quản lý, điều tiết các chất hóa học, đảm bảo sự phát triển bền vững. Trong thời gian tới, chương trình “Quan trắc và kiểm soát các chất hóa học dùng trong nông nghiệp có thể gây rối loạn nội tiết” của Dự án Đại học Liên Hiệp Quốc (do Nhật Bản chủ trì) sẽ lấy trọng tâm là các nước đang phát triển tại châu Á”.

 TS Nguyễn  Thị Xuân Thủy, Viện Y học Lao động và Vệ sinh môi trường:

Người nhiễm hóa chất BVTV có nguy cơ bất thường về sản khoa cao gấp 4 lần

“Kết quả điều tra những cơ sở sản xuất hóa chất BVTV trong nước cho thấy nồng độ hóa chất thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 7,5 đến 21 lần. Tỉ lệ nhiễm độc hóa chất BVTV cấp tính ở người lao động chiếm 1,75 đến 2,65%. Tỉ lệ nhiễm hóa chất mạn tính trung bình 18,26%, nơi nhiễm cao nhất lên tới 57,7%. Tình trạng nhiễm độc hóa chất BVTV thường gây ra các triệu chứng về hệ thần kinh, tiêu hóa và mắt với tỉ lệ rất cao. Ngoài ra, những người bị nhiễm hóa chất BVTV có các bất thường về sản khoa (sẩy thai, đẻ non, chết lưu...) chiếm tỉ lệ 16,08%, gấp 4 lần so với người bình thường không tiếp xúc với hóa chất BVTV”.

Bác sĩ Nguyễn Văn Dũng, Cục Quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm:

“Chỉ nên ban hành danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng”

“Việc quản lý các hóa chất BVTV theo ba loại danh mục: được phép, hạn chế và cấm sử dụng ở Việt Nam là không hợp lý. Bởi lẽ danh mục hạn chế sử dụng chỉ có tác dụng khuyến cáo, không có giá trị để cấm kinh doanh, sử dụng. Việc liệt kê các chất, lĩnh vực bị cấm không thể đủ hết các loại hóa chất độc hại. Đó là chưa kể đến việc các cơ quan quản lý tại các cửa khẩu không phân biệt được loại hóa chất BVTV nào bị cấm sử dụng vì tên thương mại quá nhiều lại không rõ các hoạt chất của chúng... Nên chăng chỉ cần ban hành danh mục các hóa chất BVTV được phép sử dụng. Bất kỳ hóa chất BVTV nào ngoài danh mục này muốn nhập khẩu vào Việt Nam đều phải đăng ký lưu hành...”.

 

 Chọn mua thực phẩm an toàn

Cá.- Muốn mua được cá tươi, bạn cần chọn những con cá thân co cứng, để trên bàn tay không thõng xuống. Mắt cá có nhãn cầu lồi, trong suốt, giác mạc đàn hồi. Miệng cá ngậm cứng, nhìn còn rõ nét. Mang cá khép chặt, đỏ tươi, không nhớt, không hôi. Vẩy cá tươi óng ánh, dính chặt, không có niêm dịch hoặc có ít, màu trong không có mùi. Bụng cá không phồng trướng. Hậu môn thụt sâu, màu trắng nhạt. Thịt cá rắn chắc, có đàn hồi, dính chặt vào xương sống.

Thịt gia cầm.- Khi mua gia cầm (gà, ngan, vịt...) đã mổ sẵn, bạn cần chọn những con có màu sắc tự nhiên (từ trắng ngà đến vàng tươi), mắt sáng, hậu môn không bị đen thối. Da kín, lành lặn, không có vết bầm, mốc meo hoặc vết lạ. Mùi vị bình thường mang đặc trưng của mùi gia cầm, không nhuộm phẩm màu. Gan và đầu chắc, không bị bầm dập. Vết cắt tiết thô, mặt cuộn lại, chỗ cắt có máu rỉ ra, trong mạch máu không còn máu đọng. Thịt đàn hồi, bóng sáng, màu đỏ nâu hoặc hồng nhạt, không tiết ra nước gì lạ. Mỡ màu trắng hoặc màu sữa.

Nếu ấn trên mình thấy lồi lõm không phẳng, dường như bị phồng dộp là có khả năng con vật đó đã bị bơm nước. Còn đối với thịt gia cầm bị chết, vết cắt tiết bằng phẳng, máu không ứa ra, trong mạch máu còn đọng nhiều máu, màu đỏ sẫm, có lẫn bọt. Thịt không đàn hồi, màu sẫm tím, tối. Vết cắt ngang có nước màu vàng nhạt hoặc đỏ nhờ hoặc tiết ra máu bầm đen. Mỡ thịt gia cầm bị chết có màu hồng, nhờ nhờ hoặc xanh. Trên da có đốm xuất huyết, lấm tấm từng vùng, hoen vàng.