Con người, rất cần cái tâm trong sáng và nhân ái

Những người không biết bà có thể thoáng chút ngỡ ngàng trước việc bà được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch nước: “Liệu vị Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khô khan và nguyên tắc có thích hợp với hình ảnh của một Phó Chủ tịch nước cởi mở, năng động cả trong công tác đối nội và đối ngoại?”. Song tất cả những ai biết và hiểu vị nữ GS-TS nhỏ nhắn, biết 2 ngoại ngữ Anh và Pháp, luôn thường trực nụ cười trên môi ấy đều chung niềm tin: “Bà rất xứng đáng và nhất định đảm đương tốt trọng trách mới”

Cái máu học và tính kiên định như ngấm vào thân tôi từ thuở còn chưa lọt lòng mẹ”. Bà Nguyễn Thị Doan bộc bạch khi nhìn lại chặng đường học hành của mình từ khi còn là một cô bé con liệt sĩ, nhà nghèo, trở thành vị GS-TS lúc bước sang tuổi 50. Sinh đúng ngày đầu tiên của năm mới 1951 nhưng bà không còn được nhìn thấy gương mặt thân yêu của người cha. Bố bà, một thầy giáo, đồng thời là đảng viên đầu tiên trong xã đã bị quân Pháp xử bắn khi mẹ bà mới hoài thai bà được 3 tháng. Không may sa vào tay địch trong lần đi công tác, ông một mực kiên trinh trước mọi đòn tra tấn tàn bạo nhất. Biết không thể khuất phục được người Cộng sản kiên cường ấy, quân Pháp mang ông ra xử bắn thị uy. Người thầy giáo-đảng viên Cộng sản - ngã xuống lúc 30 tuổi, để lại cho người vợ trẻ một con thơ 2 tuổi và hòn máu 3 tháng trong bụng.

Người vợ trẻ, một nông dân vùng chiêm trũng Lý Nhân-Hà Nam, nhưng cũng hiếu học và kiên cường như người chồng anh dũng. Bà tần tảo sớm hôm, quyết chí nuôi dạy con nên người. Bà thường nhắc nhở hai con thơ: “Sống phải có chí. Muốn nên người thì phải học”. “Vì mẹ và noi gương người cha đã khuất, anh em tôi cùng nhủ nhau phải học hành đến nơi đến chốn” - bà Doan tâm sự.

Khát vọng của cô bé nhà nghèo

Cô bé chăn trâu Nguyễn Thị Doan nổi tiếng học giỏi một vùng, từng đoạt giải thưởng thi học sinh giỏi ngày nào đã phần nào đền đáp công ơn và trông đợi của người mẹ thân yêu khi được vào học tại Trường ĐH Thương mại. Tốt nghiệp, cô được giữ lại trường làm giảng viên. Đạt điểm cao trong cuộc thi nghiên cứu sinh năm 1979, nữ giảng viên trẻ Nguyễn Thị Doan sang tu nghiệp phó tiến sĩ (sau tương đương tiến sĩ) ở Bulgaria năm 1981. Trở về nước năm 1985, Nguyễn Thị Doan làm không ít người ngạc nhiên khi vừa giảng dạy vừa lao vào học... tiếng Anh.

Học và noi gương người đi trước

Được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch nước, tôi hiểu đó là vinh dự lớn nhưng trách nhiệm và nhiệm vụ cũng rất nặng nề. Tôi phải học hỏi hơn nữa, nhất là những bậc tiền bối như các chị Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa... đã hoàn thành xuất sắc trách nhiệm được giao. Không chỉ mới mẻ, cương vị Phó Chủ tịch nước đòi hỏi cao hơn, rộng hơn rất nhiều, về cả đối nội và đối ngoại. Do đó tôi phải học, phải rút kinh nghiệm những người đi trước để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cần phải thể hiện sao cho vừa nguyên tắc nhưng linh hoạt, trí tuệ.

Học miệt mài, chẳng bao lâu cô giáo Doan đã có thể sử dụng tiếng Anh còn chưa thông dụng vào thời điểm đất nước mới vừa bắt đầu công cuộc đổi mới. Một hôm, hiệu trưởng Trường ĐH Thương mại cho gọi cô giáo Nguyễn Thị Doan: “Có học bổng đi Pháp, em có đi không?”. Suy nghĩ giây lát, Doan quả quyết: “Em đi!”. “Mạnh miệng thế chứ về tôi run lắm. Tiếng Pháp đối với tôi lúc đó là con số không tròn trĩnh” - bà nhớ lại. Đã cam kết với hiệu trưởng, bà lao vào “cày” ngày “cày” đêm. Tháng đầu 1 thầy-1 trò. Tháng thứ hai, 2 thầy (ngữ văn-luyện nói)-1 trò. Tháng thứ ba lại 3 thầy (ngữ văn, đọc hiểu và thầy dạy về chuyên ngành kinh tế)-1 trò. Sau 6 tháng, Nguyễn Thị Doan hồi hộp bước vào cuộc thi do hội đồng các thầy ở Pháp sang trực tiếp xét tuyển. Kết quả làm nhiều người bất ngờ, Doan trúng tuyển, sang tu nghiệp tại Trường Quản lý Kinh doanh châu Âu.

Sau những giọt nước mắt

Hoàn cảnh gia đình đã hun đúc tính kiên định, rắn rỏi của Nguyễn Thị Doan từ tấm bé. Vậy mà rất ít người biết rằng bà đã phải khóc thầm nhiều đêm. Ấy là khi được giao làm hiệu trưởng Trường ĐH Thương mại. Từ Pháp về năm 1992, Nguyễn Thị Doan được tập thể giáo viên, cán bộ-nhân viên trường tín nhiệm bầu làm hiệu trưởng năm 1993. Khó khăn chồng lên khó khăn nhưng khó khăn nhất là trường quá nghèo, lại bất ổn kéo dài nhiều năm. Thấy quá sức, bà lên gặp thứ trưởng Bộ GD-ĐT lúc đó là ông Trần Chí Đáo: “Em không thể làm được”. Song ông thứ trưởng kiên quyết: “Cô không thể thoái thác vì đó là nguyện vọng của nhiều người”.

Từ phó chủ nhiệm khoa lên thẳng hiệu trưởng, bà Doan cảm nhận rất rõ nhiều ánh mắt bất phục và cả đố kỵ. Nhiều đêm nằm bên chồng nghĩ tới những khó khăn tưởng không thể vượt qua là những giọt nước mắt nong nóng, mằn mặn lại cứ trào ra ướt gối. Rồi như sực tỉnh, bà đặt vấn đề: “Vì sao ai cũng biết căn bệnh trầm kha nhất của trường là mất đoàn kết mà không thể giải quyết được?”. Từ cái đầu của mối tơ vò này, bà phát hiện ra rằng đã có nhiều biện pháp giải quyết nhưng vẫn không ổn định được nhà trường. “Muốn lòng người yên thì phải công tâm” - bà tự nhủ.

Chọn “đột phá khẩu” chính là những người thầy chưa hoặc không hiểu mình, hiệu trưởng Nguyễn Thị Doan đến gặp từng vị “lão làng” trong trường: “Em là sản phẩm đào tạo của thầy. Em được như ngày nay là nhờ các thầy. Vinh dự của em cũng chính là vinh dự của thầy. Vì vậy thầy phải giúp em làm thế nào để trường ta ổn định và phát triển”. Những người thầy, người đi trước từ chỗ không tin tưởng đã chuyển sang ủng hộ, sát cánh cùng nữ hiệu trưởng một lòng vì nhà trường. Đắc nhân tâm, bà siết trở lại nề nếp trong nhà trường. Thầy mà mặt đỏ vì rượu bia, hay áo phông, dép lê thì đừng nghĩ đến chuyện lên giảng đường. Ai kèn cựa, đấu đá mất đoàn kết tức là tự cô lập mình, tách mình khỏi tập thể nhà trường.

Chỉ 3 năm sau khi bà làm hiệu trưởng, Trường ĐH Thương mại như đổi thay hoàn toàn, được biết đến như là ngôi trường đổi mới, có kỷ cương và đoàn kết. Từ chương trình liên kết đào tạo với Pháp và Nhật Bản mà bà chắp mối, trường mở rộng ra hợp tác với nhiều trường ĐH khác trên thế giới.

Cần nhất vẫn là tấm lòng

“Lúc đầu tôi cũng băn khoăn, trăn trở lắm. Không biết, cái tạng gắn bó với công tác giảng dạy và quản lý ở trường ĐH như mình có hợp với công tác kiểm tra nghe có vẻ khô khan, nguyên tắc hay không” - bà thú thực cảm nghĩ khi mới về nhận công tác ở Ủy ban Kiểm tra Trung ương năm 1999. Vụt sáng ở Trường ĐH Thương mại, Nguyễn Thị Doan được đề cử và trúng cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII - 1996, tái đắc cử khóa IX và X. Tháng 7-1999, bà được điều về Ủy ban Kiểm tra Trung ương, làm Ủy viên, Phó Chủ nhiệm rồi Phó Chủ nhiệm Thường trực từ khóa IX.

Tôi chỉ xin hai thứ

Lên làm hiệu trưởng Trường ĐH Thương mại năm 1993 tiếp nhận ngân khoản vẻn vẹn có 300 triệu đồng từ người tiền nhiệm. Vậy mà khi rời trường năm 1999 bà để lại cho trường số tiền lên tới gần 27 tỉ đồng. Để ghi nhận đóng góp của bà, nhà trường muốn tặng bà một phần quà giá trị.

Đáp lại tấm lòng của tập thể giáo viên, cán bộ-nhân viên nhà trường, bà chỉ xin được nhận hai thứ, một là chiếc quạt Mitsubishi và một lọ hoa bằng pha lê. “Quạt để mỗi khi bật lên là tôi lại nhận được làn gió mát của mọi người đến với mình. Lọ hoa pha lê để luôn nhắc nhở rằng tình cảm của tôi với trường và trường với tôi thủy chung trong sáng như pha lê”.

Càng làm lâu trong ngành kiểm tra, bà càng nghiệm ra rằng nghề kiểm tra này cũng có gì đó rất gần gũi với nghề dạy học của mình. Dạy học là trồng người thì kiểm tra chính là tìm và bắt sâu - cứu người. Học hỏi những vị lão thành đi trước, bà luôn khắc sâu lời dạy của Bác Hồ về công tác kiểm tra. Kiểm tra để “gỡ” là chính, chỉ khi nào không thể “gỡ” được mới kỷ luật. Khi còn lưỡng lự giữa kỷ luật và không kỷ luật thì không kỷ luật. “Kiểm tra hoàn toàn không phải là tìm thấy sâu là giết ngay con sâu ấy. Kiểm tra trước hết là phát hiện, ngăn chặn để ấu trùng không thể phát triển thành sâu” - bà tâm đắc đúc kết lại những năm tháng làm nghề kiểm tra. “Niềm vui lớn nhất, giấc ngủ ngon nhất đến với tôi là khi giúp đồng chí của mình nhận ra khuyết điểm để sửa chữa” - bà bộc bạch. Bà bảo làm kiểm tra là công việc liên quan tới sinh mệnh chính trị của một con người nên rất cần có cái tâm trong sáng, nhân ái. “Mềm dẻo nhưng không được mềm lòng” - bà nói về nguyên tắc của mình trong những năm làm kiểm tra.

Ở nhà công, ăn cơm hộp

“Cám dỗ ư? Có lẽ có cám dỗ nhưng chẳng ai cám dỗ được tôi cả” - bà cười vang trước câu hỏi của tôi. Người cùng cơ quan ai chẳng biết đố mà mời bà Doan đi tiệc tùng, đình đám nếu đó không phải là ngày vui chung của cơ quan hay phải tiếp khách. “Làm cái nghề kiểm tra này, phải biết giữ mình. Giữ mình từ cái nhỏ đến cái lớn. Có khi mình vô tư đi ăn tiệc hay đi nghỉ ngơi đâu đó theo lời mời nhưng nhỡ có người chụp lấy tấm hình rồi đưa ra bảo: “Nhìn bà Doan đây này...”. Lúc đó mình biết ăn nói ra sao bởi dù gì trong đầu người ta cũng đã đặt một dấu hỏi” - bà nhẹ nhàng trải lòng.

Bà được Trường ĐH Thương mại phân cho căn nhà 30 m2, kể cả công trình phụ. Hồi làm hiệu trưởng Trường ĐH Thương mại, bà xin TP được một khu đất rất đẹp ở Mỹ Đình để chia cho giảng viên, cán bộ trong trường làm nhà ở. Lúc ấy thấy gia đình bà gồm 5 người (vợ chồng bà cùng mẹ và hai con gái) sống trong căn nhà gần 30 m2, có người nói với bà: “Chị xin được đất cho trường sao không lấy một suất để ở cho rộng hơn”. “Nếu tất cả những người có nhà hơn 20 m2 trong trường này cùng muốn xin đất thì có đủ đất chia cho tất cả mọi người không?” - nghe bà từ tốn nói lại mọi người chỉ biết im lặng.

Nhà bà ở gần Cầu Diễn, cách cơ quan hơn chục cây số. Trên đoạn đường từ nhà bà đến cơ quan, tắc đường là “chuyện thường ngày ở huyện”. Tắc đến nỗi bà phải bỏ xe công để đi xe ôm mới luồn lách được trên dòng người xe ken kịt mỗi ngày. Đồng chí chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra đến thăm, thấy hoàn cảnh của bà, đã đề nghị cấp nhà công vụ ở Hoàng Cầu để bà tiện công tác. “Nay tôi ở nhà công, ăn cơm hộp. Trưa nào tôi cũng cùng hai đồng nghiệp ca bài ca cơm hộp” - bà cười giòn tan.