Không chuyên, bao cấp, Đề án 112 “chết” thảm
Ngay từ đầu năm 2006, thất bại của Đề án 112 giai đoạn 1 đã được mổ xẻ nhiều. Song, Ban Điều hành Đề án 112 lại không tổng kết rút kinh nghiệm mà tiếp tục triển khai giai đoạn 2 (2006 - 2010)
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 19-4 đã quyết định ngừng triển khai Đề án Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005 (gọi tắt là Đề án 112, được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định 112 ngày 25-7-2001). Tiếp đó, ngày 7-5, Văn phòng Chính phủ ra thông báo gởi các đơn vị liên quan, yêu cầu kiểm toán Đề án 112. Sau nhiều năm triển khai, Đề án 112 đã tiêu tốn một khoản lớn ngân sách Nhà nước mà không thu được kết quả nào như mục tiêu ban đầu.Lãng phí hàng trăm tỉ đồng
Dự trù kinh phí ban đầu của Đề án 112 không sát, chỉ nêu “không dưới 1.000 tỉ đồng”. Theo báo cáo của Ban Điều hành (BĐH) Đề án 112, đến tháng 9-2003, tổng hợp kinh phí cho đề án này đã là 3.730 tỉ đồng. Ông Lương Cao Sơn, Thư ký BĐH Đề án 112, cho biết đề án đã giải ngân và thực hiện với số tiền hơn 500 tỉ đồng.
Trong 5 mục tiêu của Đề án 112, có hai mục tiêu đáng chú ý là xây dựng hệ thống các trung tâm tích hợp dữ liệu và phát triển một số phần mềm dùng chung. Kinh phí xây dựng một trung tâm tích hợp dữ liệu khoảng 4 tỉ đồng. Đến hết năm 2005, hầu hết các tỉnh, TP đều đã được chi tiền để mua máy móc, nối mạng. Trung tâm đã có nhưng việc tích hợp thông tin thì chưa có địa phương nào làm được. Số tiền hơn 200 tỉ đồng đầu tư cho mục tiêu này xem như... đá ném ao bèo.
BĐH Đề án 112 đã ký hợp đồng triển khai 3 phần mềm dùng chung cho trên 40 địa phương, bộ, ngành, với kinh phí hơn 180 tỉ đồng. Thế nhưng, một nửa các đơn vị này xác nhận tỉ lệ vận hành được chỉ đạt từ 34% - 36%, nhiều nơi “đắp chiếu”. Theo TTXVN, khi Đề án 112 bắt đầu triển khai, nhiều chuyên gia đặt vấn đề: Liệu các đơn vị có chịu sử dụng phần mềm dùng chung không, và nếu không thì BĐH có đủ quyền buộc nơi đó sử dụng? Ông Lương Cao Sơn đã trả lời: Không! Chưa kể, vì sức ép tiến độ, cuối năm 2004, Trưởng BĐH Đề án 112 Vũ Đình Thuần đã thúc giục các bộ phận chuyên môn gấp rút triển khai ồ ạt, dẫn đến làm ẩu cho xong. Rất nhiều địa phương không dùng những phần mềm dùng chung mà tự xây dựng phần mềm riêng, thậm chí nhiều nơi xây dựng ra rồi lại bỏ không dùng, gây lãng phí rất lớn.
“Cái chết” được báo trước
Trước khi thực hiện Đề án 112, năm 1998, các dự án tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước với kinh phí đầu tư trên 150 tỉ đồng (thuộc chương trình quốc gia về công nghệ thông tin - CNTT) bị “khai tử” một cách đột ngột. Do vậy, ngay khi ra đời, Đề án 112 đã nhận được không ít lời cảnh báo về những nguy cơ sẽ giẫm lên vết xe đổ của các dự án nêu trên.
Theo TS Nguyễn Trọng, nguyên chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT, ngay khi sắp triển khai Đề án 112, ông đã không nhìn thấy khả năng thành công. Đề án 112 vượt quá tầm trình độ hành chính của nước ta cũng như quá tầm của những người thực hiện nó.
Thực ra, không phải đến thời điểm này, sự thất bại của Đề án 112 giai đoạn 1 (2001- 2005) mới được nói đến. Ngay từ đầu năm 2006, vấn đề này đã được nói đến rất nhiều. Tuy nhiên không hiểu sao, BĐH Đề án 112 lại không có sự tổng kết rút kinh nghiệm cần thiết mà tiếp tục triển khai giai đoạn 2 (2006 - 2010)?
Phải thanh tra mới ra vấn đề! Tại TPHCM, ngày 9-5, Kiểm toán Nhà nước về Đề án 112 đã làm việc với Sở Bưu Chính- Viễn thông. Dịp này, phóng viên Báo NLĐ đã trao đổi với ông Lê Mạnh Hà xung quanh Đề án 112. - Phóng viên: Sở Bưu chính - Viễn thông TPHCM đã đề nghị tạm ngưng 3 phần mềm dùng chung của Đề án 112 từ năm 2005, nhưng tại sao đến nay mới thực sự ngưng? - Ông Lê Mạnh Hà: Đến nay không chỉ ngưng triển khai 3 phần mềm dùng chung mà ngưng toàn bộ đề án. Đối với 3 phần mềm dùng chung, tôi đã thấy những bất hợp lý ngay từ đầu và đã gửi nhiều văn bản đề nghị ngừng triển khai, nhưng vẫn tiếp tục nên mới gây lãng phí rất lớn. - Theo ông, Đề án 112 đã làm được gì và mục tiêu quan trọng nhất mà đề án này không thực hiện được? - Ai cũng biết, nếu không có chương trình phần mềm thì máy tính chỉ là một “cục sắt”, không thể hoạt động được. BĐH Đề án 112 mới chỉ đưa vào vận hành 3/40 phần mềm dùng chung theo mục tiêu do chính BĐH đặt ra. Trong 3 phần mềm này thì thực tế chỉ có 1 hoạt động thoi thóp, 2 không hoạt động được. Không có phần mềm đồng nghĩa với đề án bị phá sản và các mục tiêu khác cũng không hoàn thành. Tuy nhiên, đề án này cũng phần nào tham gia được vào quá trình tác động đến nhận thức của cơ quan Nhà nước về ứng dụng CNTT. - Chính phủ đang kiểm toán Đề án 112. Liệu trong quá trình kiểm toán có tìm ra được vấn đề? - Theo tôi, phải thanh tra mới tìm ra được. Nếu thanh tra vào cuộc và làm công tâm thì không có gì khó. Tôi nghĩ trong vụ việc này công luận đã ủng hộ. Đây là điểm thuận lợi không nhỏ. - Theo ông, phải làm gì khi chấm dứt Đề án 112, trong lúc việc đưa ứng dụng CNTT vào cơ quan Nhà nước là mục tiêu rất quan trọng? - Phải triển khai ngay chương trình Chính phủ điện tử đã được Bộ Bưu chính - Viễn thông trình Chính phủ từ lâu nhưng bị “vướng” Đề án 112. Vấn đề là triển khai chương trình Chính phủ điện tử phải giao cho những người chuyên nghiệp điều hành. Ngọc Mai thực hiện |
Bốn bài học về thất bại Theo ông Lê Mạnh Hà, Giám đốc Sở Bưu chính-Viễn thông TPHCM, có thể chỉ ra 4 bài học về thất bại của Đề án 112. Một là, tính không chuyên nghiệp. Một đề án về CNTT mà giao cho đơn vị không có chuyên môn đảm nhận thực hiện. Với khối lượng công việc đồ sộ nhưng BĐH chỉ có vài người chuyên trách và vài tổ chuyên môn gồm những người kiêm nhiệm thì quả thật quá sức. Trưởng BĐH Đề án 112 chỉ là vị phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, không đủ tầm để làm việc với các bộ trưởng, cũng không đủ lực để tác động đến lãnh đạo các địa phương. Hai là, sự quan liêu bao cấp. Trong khi nhiều địa phương trong cả nước, đặc biệt là TPHCM, có những phần mềm ứng dụng tốt đã chạy ổn định theo thời gian thì lại bị BĐH Đề án 112 bao cấp, buộc phải sử dụng 3 phần mềm dùng chung kém cỏi, chưa hoàn thiện và thiếu tính hệ thống. Với kiểu quản lý tập trung của thế kỷ trước, bất kỳ một điều chỉnh nhỏ nào của phần mềm Đề án 112 cũng phải do các chuyên gia ngoài Hà Nội bay vào TPHCM, trung tâm lớn nhất nước về CNTT, để xử lý. Ba là, việc không đồng bộ dẫn đến lãng phí. TPHCM là TP lớn nhất nước về CNTT mà chưa xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu, thì có cần thiết các tỉnh, TP khác phải có? Bốn là, bài học về vi phạm và thất thoát. Có thể nói sai phạm lớn nhất của những người thực hiện đề án này là sai phạm về tài chính và quản lý đầu tư. |