Ngành điện đang thiếu 100.000 tỉ đồng vốn

Theo Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải, từ năm 2006-2010, tình hình cung cầu điện của VN sẽ rất căng thẳng. Nếu tính nhu cầu điện tăng 16%, cả nước sẽ thiếu khoảng 138 triệu KWh điện vào năm 2006, và thiếu 275 triệu KWh điện vào năm 2007. Và mức thiếu hụt sẽ cứ lũy tiến theo nhu cầu khó nắm bắt nếu ngay từ bây giờ không có các giải pháp đầu tư đồng bộ.

Mới đây, Thủ tướng Phan Văn Khải đã yêu cầu Bộ Công nghiệp, Tổng Công ty Điện lực VN phải tìm mọi phương án để tránh xảy ra tình trạng thiếu điện trong những năm tới. Đồng thời yêu cầu các bộ, ngành xây dựng cơ chế đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án điện để sớm trình Thủ tướng phê duyệt.

Theo quy hoạch ngành điện giai đoạn V (đã hiệu chỉnh), dự tính tốc độ tăng trưởng điện trong giai đoạn 2006- 2010 sẽ ở mức bình quân là 11,9%. Tuy nhiên, theo thống kê thực tế nhu cầu điện ở giai đoạn 2000- 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt mức 14,7%. Việc quy hoạch không sát với thực tế là nguyên nhân khiến ngành điện đối mặt với những khó khăn trước nguy cơ thiếu điện trầm trọng trong những năm tới.

3 cái khó của ngành điện

Theo tính toán của Bộ Công nghiệp, với mức tăng bình quân nhu cầu phụ tải là 15% cho cả giai đoạn 2006-2010, trong điều kiện chưa áp dụng giải pháp cấp bách chống thiếu điện thì tới năm 2006, nhu cầu tiêu dùng điện của cả nước là khoảng 61,4 tỉ KWh. Trong khi lượng điện trong nước sản xuất là 60,06 tỉ KWh và lượng điện phải nhập khẩu sẽ là 1,097 tỉ KWh. Năm 2007, nhu cầu sử dụng điện trên 71 tỉ KWh, lượng điện sản xuất trong nước kể cả nhập khẩu là 68,62 KWh, thiếu 1,38 tỉ KWh... Đó là chưa tính tới tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của VN, nhất là khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Tuy nhiên, theo một quan chức ngành điện, ngoài việc thiếu nguồn điện, thiếu vốn thì ngành điện còn thiếu cả thời gian để xoay chuyển tình thế. Theo quy định hiện hành, phải mất 3 năm cho các công đoạn như lập báo cáo nghiên cứu kỹ thuật (BCNCKT); phê duyệt BCNCKT; lập hồ sơ mời thầu; phát hành hồ sơ mời thầu; lập thiết kế kỹ thuật, phê duyệt thiết kế kỹ thuật... Công trình chỉ được khởi công sau khi đã ký hợp đồng xây lắp. Cộng với khoảng 4- 5 năm thi công... Nếu theo quy trình này, đến năm 2010, những công trình hoàn tất chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành một cơ chế đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án thủy điện (cơ chế 797). Tuy nhiên, thời gian bị “đánh cắp” trước khi ra cơ chế 797 là không thể bù đắp nổi. Ngay cả khi đã ban hành cơ chế 797 thì bài toán về vốn vẫn chưa có lời giải. Ngành điện lại rơi vào vòng luẩn quẩn, muốn có nguồn điện chỉ có cách là đầu tư, nhưng để đầu tư thì vấn đề đầu tiên là vốn. Trong khi đó, nếu “gộp” hết cả những khoản đầu tư có thể huy động được thì con số thiếu hụt vốn so với nhu cầu hiện nay vẫn ở mức khổng lồ, lên tới 100.000 tỉ đồng.

Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp

Tuần qua, ông Thái Phụng Nê, phái viên của Thủ tướng Chính phủ, đã đi kiểm tra tiến độ của tất cả các dự án điện được khởi công theo cơ chế 797. Đây cũng là giải pháp mà Bộ Công nghiệp đã đưa ra trong những giải pháp chống thiếu điện cho giai đoạn 2006-2010. Bên cạnh đó, một loạt các giải pháp cấp bách được đề ra như: Trong năm 2006, một số nhà máy điện sẽ được đưa vào vận hành như Nhà máy Điện Uông Bí mở rộng; Đuôi hơi Phú Mỹ 2.1 mở rộng 1.500 MW; Sê San 3 do EVN làm chủ đầu tư và Sê San 3A do Tổng Công ty Sông Đà làm chủ đầu tư... Nhanh chóng mua sắm và lắp đặt một số tổ tuabin khí ở miền Bắc và miền Nam để cung ứng thêm nguồn điện. Nâng cao độ khả dụng của các tổ máy thuộc các nhà máy điện, lưới điện để có thể khai thác trong mùa khô. Các hồ chứa thủy điện, đặc biệt là hồ Hòa Bình sẽ tích nước để dành cho mùa khô. Trong năm 2006 sẽ tăng cường đàm phán để mua điện của Trung Quốc, triển khai thủy điện vừa và nhỏ... Bên cạnh đó, ngành điện cũng đang kêu gọi tất cả các cơ quan quản lý Nhà nước tham gia chương trình tiết kiệm điện. Vì theo tính toán của EVN, nếu khối này thực hành tiết kiệm, con số đạt được là khá lớn, có thể lên tới 10%.

Thủ tục thanh toán còn khó khăn

Trước nguy cơ thiếu điện trầm trọng vào những năm tới và sự ì ạch của cơ chế hiện hành, Chính phủ đã ban hành cơ chế đặc biệt - cơ chế 797 để xây dựng nhanh các nhà máy điện theo tổng sơ đồ phát triển ngành điện giai đoạn V. Theo cơ chế này, ngay sau khi báo cáo nghiên cứu kỹ thuật được phê duyệt, chủ đầu tư được phép xây dựng các hạng mục phụ trợ cho công tác khởi công. Bên cạnh đó, một số cơ chế mở như được tạm ứng 10% kế hoạch vốn ngay từ đầu năm, được thanh toán 85% giá trị khối lượng thi công... Quy trình này rút ngắn được 1- 2 năm thời gian chuẩn bị và thi công các công trình thủy điện.

Tính đến thời điểm hiện nay, các dự án điện do Tổng Công ty Điện lực VN (EVN) làm chủ đầu tư được áp dụng theo cơ chế 797 đều đạt tiến độ thi công. Đơn cử như công trình thủy điện- thủy lợi Rào Quán (Quảng Trị) công suất 64 MW, với tổng vốn đầu tư trên 2.600 tỉ đồng do Tổng Công ty Thủy lợi 4 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) làm tổng thầu đã được khởi công vào năm 2003. Ông Lê Quang Thế, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thủy lợi 4, cho biết: Theo đúng kế hoạch, quý I/2007, công trình này sẽ hoàn thành và phát điện tổ máy số 1. Công trình thủy điện A Vương (Quảng Nam) với tổng vốn đầu tư hơn 3.000 tỉ đồng, dự kiến sẽ phát điện vào quý IV/2007. Chưa kể đến dự án thủy điện Sơn La, 16 dự án được áp dụng theo cơ chế 797 của EVN sẽ cho sản lượng điện dự kiến là 16 tỉ KWh/năm với doanh thu khoảng 800 triệu USD/năm.

Như vậy, cơ chế đặc biệt 797 bước đầu đã phát huy được tác dụng về thời gian thi công, chất lượng công trình và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của các nhà thầu hiện nay là thủ tục thanh toán. Do đơn giá và tổng dự toán không làm kịp, trong khi các nhà thầu phải vay vốn và trả lãi ngân hàng nhưng lại không được thanh toán. Một số nhà thầu đã trở thành “con nợ” vì thế nhiều công trình lại rơi vào nguy cơ chậm tiến độ.

Nguyên Hằng