Ngày cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam

KỶ NIỆM 56 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9 (1945 - 2001).- Thu này đã 83 tuổi ta, 82 tuổi tây, nhà thơ Huy Cận vẫn nhớ như in những tháng năm đồng bào cả nước cùng chung lý tưởng giành cho được độc lập. Không gian và thời gian ấy đã khắc sâu trong tâm trí của ông như một bài học nằm lòng không thể nào quên. Và ông đã kể:

 Cuối tháng 7-1945, tôi được Tổng bộ Việt Minh triệu tập đi họp Quốc dân Đại hội ở Tân Trào - Tuyên Quang (ngày16-8-1945) và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Ngày 26-8, Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và chính thức lập Chính phủ lâm thời trên cơ sở Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Ngay sau đó, Bác cử phái đoàn Chính phủ lâm thời do đồng chí Trần Huy Liệu làm trưởng đoàn vào Huế nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại. Phái đoàn gồm 3 người, trong đó có tôi và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là thành viên.

Trên đường vào Huế


Ngày hôm sau, chúng tôi lên đường từ sớm tinh mơ.  Trời mưa tầm mưa tã khi chúng tôi đi qua Hà Tĩnh, vẫn gặp đồng bào đứng chờ tin tức hai bên bến phà Ròn. Sáng 29-8, xe chúng tôi đến bến phà Mỹ Chánh, đồng bào đã kết đò lại thành  cầu phao cho xe qua. Ra  đón chúng tôi trên bến phà, đồng chí Tố Hữu - Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - rơm rớm nước mắt nói to: Đồng bào ơi, đây là phái đoàn của Chính phủ chúng ta. Chính phủ này thật sự là của chúng ta!. Trưa hôm đó đến thành phố  Huế, chúng tôi đi thẳng vào sân vận động Chợ Cống. Tại đây, đồng bào Huế  nghe tin đã tập trung lại chờ đón phái đoàn suốt từ ngày 28-8. Cả sân vận động cảm động, náo nức hô vang khẩu hiệu Việt Nam độc lập. Chúng tôi được các nữ đại biểu lên tặng hoa tươi.


Thế rồi lần đầu tiên trong lịch sử, có những người không phải là vua bước vào thành Huế qua cổng Ngọ Môn. Đến bên lầu Kiến Trung, ông Phạm Khắc Hòe, đổng lý ngự tiền của triều đình, dẫn chúng tôi đi lên các bậc thang đến gặp Bảo Đại đang chờ trên lầu (di tích này nay không còn). Đồng chí Liệu nói ngay: Chính phủ lâm thời hoan nghênh nhà vua thoái vị. Sau giây lát, Bảo Đại nói: Tôi rất sung sướng được gặp phái đoàn Chính phủ lâm thời. 20 năm làm vua, tôi những ngậm đắng nuốt cay, có những việc muốn làm cho dân mà người ta không cho làm. Rồi Bảo Đại hẹn 3 giờ chiều ngày hôm sau sẽ làm lễ thoái vị. Trước đó, ông Hòe  đã nói riêng với phái đoàn  rằng nhà vua có 3 đề nghị với  Chính phủ lâm thời. Đó là xin Chính phủ lâm thời cho phép những người trong hoàng tộc tùy thức được tham gia vào công cuộc cứu nước; cho phép các quan lại trong triều đình cũ tùy lòng  tùy sức cũng  được tham gia công cuộc giành độc lập; xin cách mạng xử lý đối với lăng miếu của triều Nguyễn cho có sự thể.


Kiếm của nhà vua hoen rỉ hết rồi!


Chiều 30-8-1945, phái đoàn Chính phủ lâm thời cùng đại biểu Ủy  ban Cách mạng Thừa Thiên đi thẳng xe vào cổng Ngọ Môn để tiếp nhận sự thoái vị  của hoàng đế cuối cùng trong chế độ phong kiến Việt Nam. Xe chúng tôi đến đã  thấy khoảng 5 vạn đồng bào từ nội và ngoại thành Huế tề tựu đông đủ chờ chứng kiến phút giây lịch sử. Đúng 3  giờ chiều hôm ấy, vị hoàng đế cuối  cùng vận hoàng bào lần cuối cùng với áo vàng thêu rồng, đầu đóng khăn vàng, chân đi hài cườm bước ra chuẩn bị nghi thức  của một lễ thoái  vị. Theo đề nghị của Bảo Đại, lá cờ vàng của triều Nguyễn được kéo lên lần cuối  trên cột cờ thành Huế. Tiếp đó, Bảo Đại đọc tuyên bố thoái vị một cách cảm động. Lời văn khá hay nhưng đôi chỗ đọc bập bẹ  không rõ. Có lẽ nguyên do là vì giờ phút trọng đại của lịch sử. Còn một lý do khác nữa là hằng ngày Bảo Đại đều dùng tiếng Pháp, ngay cả với mẹ đẻ, ông cũng dùng ngôn ngữ này rồi có người  thông ngôn lại. Dư âm của chế độ phong kiến lắng lại thoáng chốc như cảnh chợ  chiều đìu hiu  khi lá cờ vàng từ từ được hạ xuống, thay vào đó là lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trong tiếng vỗ tay hò reo như sấm dậy của 5 vạn đồng bào. Thay mặt Chính phủ lâm thời, đồng chí Trần Huy Liệu đọc tuyên bố chấp nhận sự thoái vị và nhận ấn kiếm từ tay Bảo Đại. Chiếc ấn bằng vàng, nặng hơn 8kg  được đúc từ thời Minh Mạng. Đồng chí Liệu phải gồng sức khi nhận ấn vì không ngờ lại nặng đến thế. Nhận kiếm từ tay Bảo Đại, đồng chí Liệu trao kiếm cho tôi. Vỏ kiếm được đúc bằng vàng, có dát ngọc nhưng khi rút kiếm ra tôi thấy lưỡi  kiếm đã bị hoen rỉ. Tôi thốt lên: Thưa đồng bào, kiếm của nhà vua hoen rỉ hết rồi!. Đồng bào cười ồ lên. Thoáng chút ngỡ ngàng cho Bảo Đại. Sau đó, Bảo Đại nói: Bây giờ tôi sung sướng được làm dân của một nước độc lập, còn hơn  làm vua một nước bị đô hộ. Xin Chính phủ lâm thời cho tôi một vật làm kỷ niệm giờ phút long trọng này. Không ai trong chúng tôi nghĩ đến tình huống này  nhưng ngay sau đó, tôi đã đề nghị với đồng chí Liệu lấy huy hiệu thêu cờ đỏ sao vàng trên ngực tôi gắn cho Bảo Đại (đây là huy hiệu do các chị ở Ủy ban Cách mạng Thừa Thiên thêu để gắn lên ngực mỗi thành viên phái đoàn). Gắn xong huy hiệu lên ngực Bảo Đại, đồng chí Liệu nói: Thưa đồng bào, Chính phủ lâm thời đã gắn huy hiệu cờ đỏ sao vàng cho nhà vua. Đề nghị đồng bào hoan nghênh người công dân Vĩnh Thụy. Tiếng hô hoan nghênh, hoan nghênh vang dội trong khi Bảo Đại rất cảm động. Sau đó, đồng bào theo các lối qua cửa An Hòa, cửa Thượng Tứ, cầu Tràng Tiền chia đi nhiều ngả. Sáng 31-8, Bác Hồ  giao cho đồng chí Lê Văn  Hiến (Bộ trưởng Bộ Lao động) kiểm kê  tài sản của Bảo Đại và tài sản của triều đình. Số tài sản của Bảo Đại được đem đến An Đình cung, tài  sản của triều đình thì niêm phong lại và giao cho Ủy ban Cách mạng Thừa Thiên quản lý. Đồng chí Hiến  còn được Người giao trọng trách đến thăm và tặng một số tiền Đông Dương cho hai bà hoàng  của triều Nguyễn (thời vua Thành Thái và vua Duy Tân) tạm dùng trong những ngày chính biến.