Thôn... thư ký lãnh đạo
Đó là thôn Chiên Đàn, xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh - Quảng Nam, có ông Đống Ngạc - nguyên thư ký của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; ông Đinh Niệm - thư ký của cựu Chủ tịch nước Võ Chí Công và ông Nguyễn Nhã - nguyên thư ký của cố Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh
Khi nghe chúng tôi đề cập đến “thôn thư ký lãnh đạo”, ông Đống Ngạc cười khà: “Kể cũng lạ, thôn Chiên Đàn có “duyên” với cái nghề làm thư ký cho các vị lãnh đạo cao cấp hay sao ấy...!”.
Cơ duyên đưa đẩy
Ông Đống Ngạc sinh năm 1925. Sau khi tập kết ra Bắc, từ năm 1956-1959, ông giữ chức Chánh Văn phòng, sau đó làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động VN (1959-1961, phụ trách nông nghiệp). Lúc đó Ban Tổ chức Trung ương sang, định rút hàng loạt cán bộ của Trung ương Đoàn. Ông Ngạc đề nghị: “Tôi hiểu nông nghiệp, nên bố trí về lĩnh vực ấy”. Một lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương gạt ngang: “Anh có hai lựa chọn, hoặc là làm thư ký cho anh Ba (tên thân mật của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn- PV) hoặc là về bên ngành ngoại giao”. Ông Ngạc phân vân: “Tính tôi nóng nảy, không làm ngoại giao được”. Vậy thì làm thư ký! Đến tháng 4-1962, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định, chính thức điều động ông Đống Ngạc về làm thư ký cho ông Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (đến Đại hội IV - năm 1976, ông Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư).
Còn ông Đinh Niệm (sinh năm 1929) trở thành thư ký của “anh Năm Công”, tức cựu Chủ tịch nước Võ Chí Công, trong một cơ duyên khác. Sau khi đi học ở Liên Xô về, ông Niệm công tác ở Ban Tài mậu thuộc Trung ương Đảng. Sau giải phóng, ông Năm Công ra Hà Nội nhậm chức Phó Thủ tướng, gặp ông Đống Ngạc và hỏi: “Chú coi có ai được, giới thiệu làm thư ký cho mình”. Ông Ngạc giới thiệu ngay ông Niệm, ông Năm Công “gật” liền. Ông Đinh Niệm trở thành thư ký của ông Võ Chí Công kể từ đó. Năm 1987, ông Võ Chí Công được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Riêng ông Nguyễn Nhã (sinh năm 1927), trong những năm 1950 làm Báo Cứu quốc ở Khu V, thời ông Nguyễn Duy Trinh làm Bí thư Khu ủy. Ngày 14-5-1955, ông Nhã và ông Trinh cùng có mặt trên chuyến tàu tập kết cuối cùng ra Bắc. Trên tàu, ông Trinh nói: “Ra ngoài ấy, cậu về chỗ mình đấy nhé!”. Tháng 8-1956, ông Nhã trở thành thư ký cho Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Duy Trinh (về sau là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ VN Dân chủ Cộng hòa).
Viết điếu văn truy điệu Hồ Chủ tịch
Làm thư ký suốt hơn 24 năm cho đến ngày Tổng Bí thư từ trần (10-7-1986), kỷ niệm sâu sắc nhất đối với ông Đống Ngạc là được “anh Ba” giao nhiệm vụ soạn điếu văn truy điệu Hồ Chủ tịch.
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 6-9-1969 (4 ngày sau khi Bác Hồ từ trần), ông Ba Duẩn gọi ông Ngạc cùng ông Đậu Ngọc Xuân (một thư ký khác của ông Lê Duẩn - PV) vào phòng riêng, giao nhiệm vụ viết điếu văn để đọc trong lễ truy điệu Bác. Hai ông lập tức bắt tay dự thảo ngay. Viết rồi lại xóa, xóa rồi lại viết..., loay hoay mãi đến nửa đêm, ông Xuân gục xuống bàn kiệt sức do thức liên tục nhiều đêm. 1 giờ sáng, ông Ngạc một mình vắt óc. Câu đầu tiên ông viết: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp nổi!” (sau này được sửa thành “Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn”). Cảm xúc ông từ đó tuôn chảy... Sau 4 giờ, bài điếu tạm xong với 5 trang bản thảo. Đến 20 giờ cùng ngày, sau 4 lần được Bộ Chính trị và Ban Bí thư sửa chữa thêm, bài điếu hoàn thiện và trở thành văn bản chính thức.
Sáng 8-9-1969, ông Ba Duẩn ngồi giữa phòng làm việc đọc to điếu văn. “Lúc đó, anh Ba không ngăn nổi xúc động, nhiều đoạn nghẹn lời, nước mắt chảy ràn rụa làm nhòe cả kính đeo mắt. Anh em giúp việc đã đau buồn sẵn, thấy vậy cũng thút thít”. Kể đến đây, mắt ông Ngạc bỗng đỏ hoe.
Còn ông Nguyễn Nhã, trong 20 năm cận kề vị Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, đáng nhớ nhất là lần chứng kiến vị lãnh đạo tài năng này thay mặt Chính phủ VN Dân chủ Cộng hòa đặt bút ký vào Hiệp định Paris lịch sử. Nhớ lại thời khắc vào ngày 27-1-1973 ấy, ông Nhã không cầm được nước mắt: “Tôi đã khóc, nghĩ nhiều đến công lao của anh em trên chiến trường...”.
Đất học sinh người tài
Ông Ngạc, ông Niệm và ông Nhã trở thành niềm tự hào của người dân Chiên Đàn. Thuở trước, Chiên Đàn còn là chiếc nôi sinh ra nhiều bậc khoa cử, võ quan như cử nhân Trần Văn Dư - thủ lĩnh Nghĩa hội Quảng Nam, phó bảng Nguyễn Dục, đô đốc Kiều Phụng, võ tướng Đống Công Trường... Ngoài ra, Chiên Đàn còn có không ít vị tướng, tá trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Thời phong kiến, Chiên Đàn thuộc huyện Hà Đông, phủ Tam Kỳ. Trường Huấn (Huấn đạo) của huyện Hà Đông trước đây đặt tại Chiên Đàn, trở thành trung tâm giáo dục lớn của toàn vùng. Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng cũng từng về học tại trường này. Ông Đống Ngạc kể, hồi trước tại Khổng Miếu (gần Trường Tiểu học Trần Phú bây giờ) có khắc 4 chữ “Khuynh cái, hạ mã”, nghĩa là ai qua làng cũng phải ngã nón hay xuống ngựa để bày tỏ sự trọng thị. Trọng thị vùng đất địa linh nhân kiệt. Ở Chiên Đàn từ xưa đến nay, đất học đã sinh ra lắm người tài!