Thuyền cổ Bắc Ninh: Hé lộ bí ẩn hàng hải và giao thương cổ đại
(NLĐO)- Chiếc thuyền cổ được đánh giá là độc đáo nhất từng phát hiện tại Việt Nam, đã hé lộ những bí ẩn hàng hải và mạng lưới thương mại hàng hải cổ đại.
Kho báu dưới lòng ao
Con thuyền cổ được phát hiện một cách tình cờ vào cuối năm 2024, khi ông Nguyễn Văn Chiến, một người dân địa phương, thuê máy xúc cải tạo ao cá tại khu phố Công Hà.

Hai chiếc thuyền cổ Bắc Ninh được đánh giá là độc đáo nhất từng phát hiện tại Việt Nam
Khi đào sâu 1-2 m, máy xúc chạm vào những mảnh gỗ lớn, lộ ra hai chiếc thuyền cổ nằm cách nhau 2 m, chìm sâu dưới lớp bùn đất. Nhận thấy có điều đặc biệt, ông Chiến lập tức báo cáo chính quyền, và ngay sau đó một cuộc khai quật khẩn cấp do Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Sở VH-TT-DL Bắc Ninh được thực hiện, kéo dài 1 tháng, từ ngày 3-3 đến 3-4-2025.
Các nhà khảo cổ sử dụng máy bơm hút nước, bóc tách đất cát cẩn thận, phủ vải địa kỹ thuật, và tưới nước giữ ẩm để bảo vệ thân thuyền. "Chúng tôi ghi chép, chụp ảnh, quay video, và vẽ chi tiết để tư liệu hóa cấu trúc thuyền" - TS Phạm Văn Triệu, Phó Trưởng phòng Khảo cổ học Lịch sử, Viện Khảo cổ học, người trực tiếp khai quật con thuyền, chia sẻ.
Các mẫu đất, gỗ, và di vật đang được phân tích tại phòng thí nghiệm để xác định niên đại và công năng.
Theo TS Phạm Văn Triệu, những phát hiện từ thuyền cổ Bắc Ninh có ý nghĩa lịch sử và văn hóa to lớn. Nó không chỉ độc đáo về quy mô mà còn về kỹ thuật, mở ra hướng nghiên cứu mới về hàng hải cổ đại Việt Nam.
Kiệt tác kỹ thuật đóng thuyền hai đáy

Thuyền cổ mở ra hướng nghiên cứu mới về hàng hải cổ đại Việt Nam.
Sự độc đáo của thuyền cổ Bắc Ninh nằm ở cấu trúc "lưỡng phúc thuyền" (thuyền hai đáy), một thiết kế chưa từng ghi nhận ở Việt Nam và hiếm gặp trên thế giới. Mỗi thuyền dài 16,1-16,2 m, rộng 1,95-2,25 m, sâu 1,5-2,15 m, chia thành 6 khoang. Đáy thuyền làm từ gỗ độc mộc (đường kính lớn nhất 0,95 m), do vậy cây gỗ phải có đường kính trên 1m mới có thể dùng để chế tạo.

Con thuyền được phát hiện một cách tình cờ vào cuối năm 2024
Thân thuyền ghép từ 7-8 lớp ván, mỗi tấm rộng 22-34cm, dày trung bình 4,5cm. Hai thân thuyền cấu trúc tương tự, chia thành 6 khoang. Trong đó khoang đầu và khoang cuối phức tạp nhất, có các thanh đà ngang - dọc tạo độ vững chãi. Người xưa dùng kỹ thuật đục thân cây, ghép các dải ván bằng mộng, sau đó các mộng này được chốt lại bằng đinh gỗ, không sử dụng đinh kim loại – một đặc trưng của truyền thống đóng thuyền Đông Nam Á.
Theo báo cáo của Sở VH-TT-DL Bắc Ninh, kỹ thuật phức tạp nhất thể hiện ở phần đầu và đuôi thuyền, đó là vị trí nối giữa phần đáy độc mộc và ván bửng được khóa chặt với nhau, cố định bằng 4 trụ gỗ có kích thước tương tự nhau 5cm x 5cm. Đây là kỹ thuật lần đầu tiên thấy được trong kỹ thuật đóng tàu thuyền cổ ở Việt Nam và thế giới. Kỹ thuật này cũng cho thấy trình độ đóng thuyền vượt bậc, khác biệt hoàn toàn với thuyền độc mộc Đông Sơn hay thuyền buôn nhỏ thời Lê - Nguyễn.

Thuyền hai đáy chưa từng ghi nhận ở Việt Nam và hiếm gặp trên thế giới
TS Nguyễn Việt, Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á, nhấn mạnh: "Thuyền hai đáy là một kỳ tích kỹ thuật, thể hiện khả năng chịu lực và chịu nước vượt trội. Thiết kế này không chỉ độc đáo ở Việt Nam mà còn mang giá trị so sánh với các di tích hàng hải châu Á-Thái Bình Dương".
So sánh với các di tích hàng hải quốc tế, thuyền cổ Bắc Ninh mang nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Kỹ thuật ghép mộng và chốt gỗ gần với truyền thống đóng thuyền Đông Nam Á, như thuyền Borobudur (Indonesia, thế kỷ 8-9) hay thuyền Phù Nam (Nam Bộ, thế kỷ 5-6). Tuy nhiên, thiết kế hai đáy và thanh nối chữ T là độc đáo, không thấy ở các di tích tương tự.
Hé lộ mạng lưới giao thương cổ đại

Con thuyền đã đã hé lộ những bí ẩn hàng hải và mạng lưới thương mại hàng hải cổ đại.
Thuyền nằm trên dòng sông Dâu cổ, cách thành cổ Luy Lâu 1,9 km, chùa Dâu 600 m, và chùa Tổ 500 m, từng là tuyến giao thông đường thủy huyết mạch nối Luy Lâu với sông Hồng, Lục Đầu giang, và các cảng biển châu Á
Vị trí phát hiện thuyền trên sông Dâu gần Luy Lâu gợi ý mối liên hệ chặt chẽ với trung tâm chính trị, kinh tế, và tôn giáo của Giao Chỉ/Giao Châu thời cổ. Sông Dâu từng là tuyến giao thương huyết mạch, kết nối Luy Lâu với các cảng biển và khu vực châu Á. PGS-TS Bùi Minh Trí, Viện Khảo cổ học, nhận định thuyền có thể là phương tiện chở hàng hóa, kết hợp du ngoạn, nhưng không phải thuyền chiến do thiếu lỗ cắm chèo hay cột buồm.
PGS-TS Bùi Minh Trí cũng đưa ra giả thuyết thuyền không phải đắm mà bị bỏ lại, với phần thượng tầng (sàn, lầu) đã tháo bỏ. Điều này lý giải vì sao chỉ tìm thấy ít di vật như hạt quả và một mảnh gốm. Đồng thời gợi ý thuyền có thể thuộc một bến neo đậu hoặc xưởng đóng tàu cổ, củng cố vai trò của Luy Lâu như một trung tâm giao thương quốc tế.

Có ý kiến cho rằng thuyền có niên đại từ thế kỷ XI-XIV (thời Lý, thời Trần) và không muộn hơn thế kỷ XV
Về niên đại, các chuyên gia đưa ra nhiều giả thuyết. PGS-TS Tống Trung Tín, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học, cho rằng thuyền có thể từ thời Lý (thế kỷ 11-14), dựa trên sử liệu ghi chép về thuyền hai đáy trong "Việt Sử lược" (1106, thuyền Vĩnh Long) và "Đại Việt Sử ký toàn thư" (1124, thuyền Tường Quang).
Tuy nhiên, TS Nguyễn Việt đề xuất niên đại sớm hơn, khoảng thế kỷ 2-3 TCN (thời Văn Lang), dựa trên mảnh gốm tương đồng với di chỉ Làng Cả (Phong Châu). Đến nay, kết quả phân tích Carbon-14 (C14) từ Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân, vẫn chưa được công bố (dự kiến công bố giữa tháng 4-2025). Các nhà khoa học vẫn chưa khẳng định được niên đại.
Dù vậy, căn cứ các tài liệu thuyền của Trung Quốc và thế giới, có ý kiến cho rằng thuyền có niên đại từ thế kỷ XI-XIV (thời Lý, thời Trần) và không muộn hơn thế kỷ XV.
Thách thức bảo tồn

Việc bảo tồn thuyền cổ đối mặt nhiều thách thức
Phát hiện thuyền cổ không chỉ làm phong phú di sản Bắc Ninh mà còn mở ra tiềm năng du lịch văn hóa. Tuy nhiên, việc bảo tồn thuyền cổ đối mặt nhiều thách thức.
Ông Nguyễn Văn Đáp, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL Bắc Ninh, cho hay dựa trên tình trạng di tích và đề xuất của Viện Khảo cổ học, Sở này đề xuất lấp cát bảo vệ nguyên trạng, sử dụng công nghệ 3D để trình chiếu cho du khách.
Phương án này tiết kiệm chi phí và bảo vệ thuyền khỏi hư hại.
Tuy nhiên, phương án xây bể nước ngâm thuyền tại chỗ, cho phép du khách xem trực tiếp, cũng được xem xét dù chi phí cao hơn. Chi phí xây bể nước ngâm thuyền có thể lên đến hàng tỉ đồng, đòi hỏi sự đầu tư từ tỉnh và trung ương.
"Bảo quản trong môi trường ẩm là bắt buộc, vì gỗ tiếp xúc không khí sẽ nhanh chóng mục nát"- TS Vũ Thế Long, chuyên gia khảo cổ, nhấn mạnh.
Việc di dời thuyền đến bảo tàng là bất khả thi do kích thước lớn và tình trạng gỗ dễ vỡ. Vì thế Bắc Ninh ưu tiên bảo tồn tại chỗ, kết hợp nghiên cứu trầm tích sông Dâu để hiểu bối cảnh lịch sử.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thuyền cổ Bắc Ninh không chỉ là một di tích khảo cổ mà còn là minh chứng sống động cho tài năng và trí tuệ của người Việt cổ. Với kỹ thuật đóng thuyền tiên tiến, vai trò trong mạng lưới giao thương, và giá trị khảo cổ quốc tế, cặp thuyền hai đáy này đang định hình lại hiểu biết về hàng hải Việt Nam.