Chén rượu quan hà
LTS: Tiếp theo sau hai bài viết về Trần Dần (NLĐ ngày 24-2-2007) và Hoàng Cầm (NLĐ ngày 3-3-2007) , chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết của cố nhà thơ Thu Bồn về nhà văn Phùng Quán (trích trong cuốn Nhớ Phùng Quán - NXB Trẻ, 2003)
Mỗi năm cứ độ gần Tết anh lại vào Nam thăm viếng bạn bè. Lần nào anh cũng ghé nhà tôi để uống một ly rượu ngon do bàn tay mẹ tôi cất. Năm nay đột nhiên không thấy anh vào nữa, lòng tôi thấy lo lo.
Linh tính bạn bè không phải là điều vô cớ. Cái đêm anh uống rượu trong vườn nhà tôi bỗng nhiên anh khóc. Người say khóc là chuyện thường, nhưng Phùng Quán không say. Anh đọc thơ rất hay, thỉnh thoảng nhấp một chút rất trịnh trọng - anh uống rượu và uống những giọt nước mắt của mình. Đêm đen sâu thẳm. Chúng tôi ngồi xung quanh ánh lửa hồng.
Hôm nay mai nở vàng phương Nam. Nhìn những búp hoa tròn lóng lánh sương tôi lại nhớ đến những giọt nước mắt của anh.
Không phải ngẫu nhiên mà cuộc đời làm thơ của anh và tôi có nhiều điểm giống nhau. Anh là thiếu sinh quân ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa... từng nương Thiên Mụ từng ngụ Đập Đá, Văn Xá, Truồi, Nong... Tôi là thiếu sinh quân của Liên Khu Năm.
Quá khứ không bao giờ nhòa được một nhà thơ Thanh Tịnh già một Phùng Quán trẻ từng đi bộ suốt dãy núi Trường Sơn đến chiến khu Việt Bắc đọc thơ và đọc tấu cho bộ đội nghe. Những người lính năm ấy bây giờ nhiều người là tướng lĩnh.
Anh về Văn nghệ Quân đội trước tôi. Tên tuổi anh nổi tiếng với Vượt Côn Đảo, trường ca Tiếng hát trên địa ngục. Một thế hệ thanh niên đã lấy quyển sách Vượt Côn Đảo làm quyển sách gối đầu giường. Anh tài năng hơn tôi, hẩm hiu hơn tôi, trung thành hơn tôi, cam chịu hơn tôi và cũng nghèo nàn hơn tôi.
Có người cho anh là lập dị, nhưng không phải. Anh đi guốc mộc vì cái bàn chân tê thấp và tiền đâu mà mua giày mua dép? Tiền đâu mua nón nỉ nón cối mà không đội nón lá kè?
Tôi về 4 Lý Nam Đế (Hà Nội) ở đúng cái phòng anh ở trước nên ai đến cũng lầm tôi là Phùng Quán vì tôi cũng có cái ngoại hình giống anh. Sau này do trời xui đất khiến thế nào mà vợ tôi lại đóng phim Tuổi thơ dữ dội của anh. Mẹ Niệm bán bún bò Huế - Mẹ của thằng Mừng bị chết loang lổ máu bên bờ suối. Dù là chết giả trong phim, nhưng tôi thấy rợn rợn thế nào. Vẫn may là thằng Mừng năm nay đã trưởng thành và mẹ nó không còn cái cảnh gánh bún bò trên vai.
Ra Hà Nội lần nào tôi cũng đến thăm anh. Cũng chui vào một con đường kiệt bên hông trường Chu Văn An, bẻ ngoặt lại ven bức tường là một Hồ Tây rộng mênh mông. Mái lều nhỏ bé và một cái chòi rách tươm như đời thi sĩ nghểnh cổ lên để cố nhìn cho thấu tận Tam Đảo, Ba Vì. Bây giờ thời mở cửa, Phùng Quán cũng mở được.cái cửa sau thông ra Hồ Tây, sục thẳng vào một cái quán cá. Cái quán cá là cái bình phong làm vướng mắt không nhìn được qua khu biệt thự Tây Hồ với đại sảnh đường sang trọng vào bậc nhất của quốc gia. Cái số mà! Nhưng cũng có cái hay: Bạn bè đến có sẵn cá làm gỏi nhấm nháp đưa cay và đưa cả thơ lên chín tầng mây.
Vừa rồi tôi và Lý Bạch Huệ (mẹ thằng Mừng) ra Hà Nội thăm anh. Tôi đi theo con đường cũ, vào cổng. Nhà thơ lại bày ra một cái hồ bán nguyệt nhốt một cụm sen tơ và mấy con cá vàng - một thứ nhạc sống của dân lưu linh. Trên đầu tôi có một giàn hoa, không phải là lan hay lý mà là một giàn trái cây giống trái dưa lê. Tôi hái hai quả để đem về làm giống.
Chị Trâm, vợ Phùng Quán, không ngớt giới thiệu về những bài thơ của bạn bè để trên vách. Chị Trâm đem ra khoe với chúng tôi chiếc bao vĩ đại của Phùng Quán tiên sinh dùng để giấu hai ống chân khẳng khiu vào trốn những mũi chích hiểm hóc của bầy muỗi Tây Hồ. Bàn ghế trong nhà đều do một tay nhà thơ chế biến từ những vỏ ti vi hư. Chúng tôi ít khi ngồi trên những chiếc ghế ấy; không phải sợ ngã mà vì chúng tôi thích ngồi thiền trên cái chòi để ngắm nhìn cho được toàn cảnh Hồ Tây. Những mảnh vụn và rách được bàn tay thi sĩ xếp lại làm nên cái chòi có tên là “Chòi ngắm sóng”. Trên nóc chòi có gắn một bình rượu làm biểu tượng...
Thơ văn Phùng Quán từ hồi anh có mặt trong hàng ngũ những nhà thơ lớn chưa hề có nửa chữ nào phản lại nhân dân, anh yêu thương và ca ngợi từ trái cà nghèo nàn quê hương anh đến những chiếc vại làm bằng đất thó - những vại cà này nuôi cả dân tộc này lớn lên và làm nên những kỳ tích anh hùng. Có lẽ vì từ khi mở mắt đến khi nhắm mắt anh chưa hề được bước chân đến một đất nước nào khác ngoài cái đất nước Việt Nam yêu quý.
Cái bình điếu thuốc lào, tẩu còn đựng bên vách với những tàn đóm một thời còn chưa có thì giờ sắp xếp - chúng đang ngổn ngang cùng với những trang sử thi Tago những anh hùng ca Hôme, những Bôđờle, những Puskin, những Nguyễn Du, Cao Bá Quát... Nhưng anh đã đi rồi.
Suối Lồ Ồ, đêm 22 chuyển sang ngày 23-1-1995
Hôn PHÙNG QUÁN Trời đã sinh ra em Để mà xinh mà đẹp Trời đã sinh ra anh Để yêu em tha thiết! Khi người ta yêu nhau Hôn nhau trong say đắm Còn anh, anh yêu em Anh phải đi ra trận! Yêu nhau ai không muốn Gần nhau và hôn nhau Nhưng anh, anh không muốn Hôn em trong tủi sầu! Em ơi rất có thể Anh chết giữa chiến trường Đôi môi tươi đạn xé Chưa bao giờ được hôn! Nhưng dù chết em ơi Yêu em anh không thể Hôn em bằng đôi môi Của một người nô lệ! |