Hoa Hồ Gươm không bao giờ… cũ
Hồ Gươm có Tháp Rùa xưa cũ, nhưng hoa hồ Gươm lại không bao giờ cũ. Hoa Hồ Gươm, bốn mùa đi, bốn mùa đổi màu, ra nụ, đơm hoa, nảy mầm, thay lá, kết trái, toả hương…dưới nắng, trong mưa, qua dông tố, bão bùng, bụi cát, giữa ồn ào, xô đẩy... Hoa vẫn tưng bừng hoà ca cùng giọng nói con người, cùng tiếng chim, tiếng con cuốc cuốc, cùng sương sớm, mù đêm, cùng mưa dầm, gió bấc, cùng mặt trời, trăng sao, tinh tú...
Hoa Hồ Gươm là nhạc, là thơ, là nét vẽ bên trời, là công trình kiến trúc Á - Âu, được sinh ra bởi con người, được nuôi dưỡng bởi cha Trời, mẹ Đất. Hoa Hồ Gươm là món quà tặng từ hỗn mang, rọi ánh sáng tới miền tăm tối, dâng niềm vui tới kẻ u sầu…
Chuyện kể rằng hồi đầu thế kỷ 20, xung quanh hồ Gươm, cây cối rậm rịt, hoang tàn, u tịch, nhà mái tranh xiêu vẹo. Bỗng một đêm, những mái nhà bốc cháy. Người Pháp đô hộ, lấy cớ di dân vào xây lại phố. Đường quanh hồ được xây thành chu vi gần hai cây số có vườn hoa kiểu Pháp, vừa có cây xanh um tùm che nắng, vừa có thảm cỏ xanh rờn dưới bóng cây, dâng nét dịu dàng những cung bậc màu xanh, thêm thảm hoa rực rỡ màu đỏ, vàng, tím, hồng, trắng, nâu, lục lam, chàm…như dạo nhạc cho những cụ Báng Súng khổng lồ của châu Phi, nhẫn nại, chung tình, hàng thế kỷ nay hút bụi và toả bóng râm xanh lành vào phố, pha gam màu lá cây trầm lặng, u hoài cho Hồ Gươm. Các cụ Đa, cụ Si bên Tháp Hoà Phong, trong đền Ngọc Sơn, ngoài đền Bà Kiệu…hiến tặng Hồ Gươm vẻ tinh thiết hào hoa của Thăng Long Hà Nội gần nghìn năm tuổi. Nếu không có những bộ râu hiền như Tiên ông khề khà xoà xuống lòng hồ Gươm xanh của những cụ Si, nếu không có những cội Đa rễ chồng, rễ đóng thành hầm, thành hố, điểm quanh hồ Gươm, chắc khó ai đếm được tuổi của cụ Rùa. Búp Đa, quả Đa là mầm nụ, là sự sinh nở của cội cành, là hoa tô sắc cho lá biếc. Còn cụ Lộc Vừng chính gốc, choãi chân bám vào mẹ Đất, để cành xoã xuống ôm choàng lấy mặt nước như dáng mẹ hiền trải lòng mình tới các con, sợ một mai phải lìa xa mãi mãi. Cả hồ Gươm chỉ có hai cây Lộc Vừng đẹp như hoàng thái hậu đứng nơi đầu đường Trần Nguyên Hãn, năm hai lần nở hoa, nên gọi là hoa Nhị Độ. Hoa Lộc Vừng nứt từ đầu cành nhánh thành từng dây rủ xuống như chiếc trâm cài tóc, những cánh hoa mỏng tang, nhỏ li ti, màu đỏ trái tim đính vào dây.
Mùa Xuân mưa phùn phủ bụi mờ, không khí mát ẩm, Lộc Vừng nở rộ, từng dây, từng dây hoa đỏ rung rinh như ngàn chiếc trâm trang hoàng trên đầu mỹ nữ, công chúa, hoàng hậu, hoàng thái hậu, lộng lẫy, kiêu sa, vương giả, mà gần gũi, giản dị, bởi kẻ ăn mày qua đây cũng được hả hê ngắm nghía. Khi tàn, cánh hoa rơi, còn tụ lại muôn hình sắc, màu đỏ loang trên nền đất nâu, hay chơi vơi theo làn sóng nước hồ xanh, mà ngời lên sắc đỏ của trái tim tình yêu, chẳng nỡ ra đi. Nhớ phố, mùa thu khi gió se se lạnh, Lộc Vừng lại bừng nở dưới bầu trời thu Hà Nội, khoe sắc đỏ mơn man cùng màu xanh lưu ly của cốm. Mùa thu, mùa xuân, qua hồ Gươm ngắm muôn vạn cánh Lộc Vừng đỏ tươi, tan cùng làn sóng biếc, ai đó cùng ai vấn vương câu quan họ: "Bèo dạt mây trôi", chạnh lòng thoảng nhớ về thân phận con người.
Qua hồ Gươm ai cũng đắm đuối bên cụ Gạo khổng lồ, gốc sù những mố, những cục tròn lăn lóc xếp chồng nhau, trơn bóng và cứng như những hòn đá cuội. Cụ Gạo từ làng lên phố từ lâu lắm rồi, bao phen binh lửa, bao cuộc biến đổi, bao triều đại đổ vỡ, bao kiếp giành giật ngai vàng, bao người vô danh ngã xuống…cụ đều nhìn thấy cả. Mà sao cụ cứ bình chân như vại, cứ vững chãi như núi đá vậy?
Và còn bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa Hồ Gươm là bấy nhiêu miền đất, vùng trời tụ về dâng hương sắc. Hoa Ban khắc khoải nhắn đừng quên bà bủ chập chờn bếp lửa, những dáng thanh xuân uốn lượn múa xoè, những chiến hào Điện Biên đánh giặc…Hoa Sầu từ làng cổ bên sông Cầu chở dân ca về phố. Hoa Vông Vang, Vàng Anh, Muồng vàng, Chà Là, Cơm nguội, cây Muỗm, cây Quéo, Dâm Bụt, hoa Cúc, Thược Dược…cả đám hoa dại không tên …đều là hương đồng gió nội ngàn phương tụ về…Đến cây Sung mọc trên tầng đá của núi Độc Tôn ôm lấy chân Tháp Bút, chẳng thấy hoa mà sao quả nó cứ thơm mê man mùi thơm quyến rũ của cây quả Việt Nam, nó thơm cả hương bánh kẹo phương Tây, quấn vào mũi, vào môi. Quả Sung chín tím đỏ rụng xuống, hương vẫn bay ngon ngọt. Hương quả Sung rung toả nhè nhẹ trong không gian một vẻ thanh bình tĩnh lặng, gợi nhớ một góc ao làng hay góc vườn hoang sâu thẳm, nhớ mối tình đầu ai nỡ đánh rơi..Còn những bóng Liễu tha thướt thả tóc mềm như mây, nhẹ như gió thoảng thơm bên hồ, luôn ám ảnh những chàng hiệp sĩ thế kỷ 21.
Bên lề còn có bốn cụ hoa Sữa khổng lồ từ rừng sâu núi thẳm về đây, thân to thẳng sừng sững giữa trời hồ Gươm, âm thầm chắt chiu hương bốn mùa hoa nắng, thành hương hoa Sữa ngào ngạt sưởi ấm gió mùa đông bắc lạnh khô người…Hè tới, gần bác Phượng già sau một đời chinh chiến lặng lẽ tụ về ngả bên sóng nước hồ Gươm, cháy cạn mình, gọi cháu con mở sách…Bên bao nhiêu bác Phượng là bấy nhiêu cô Bằng Lăng, tím đỏ màu thương nhớ…làm cho hồ Gươm bừng sáng, rạo rực một trời hoa, thắm như máu, đỏ như son, nồng nàn như lửa
Qua cầu Thê Húc, vào Đền Ngọc Sơn là thế giới của các cụ Si. Muôn chòm râu bạc rung rung xoã xuống mặt hồ Gươm, dâng ngàn lá biếc, tô nước thêm xanh…
Những ngày mồng một hoặc ngày rằm, trong sân đền Ngọc Sơn khói hương bảng lảng, người bên người thành kính nguyện cầu, tiếp đó vượng khí linh thiêng, ngắm cảnh, xem hoa, tìm nguồn, hỏi gốc…Cụ Đặng Sĩ Việt, tuổi chín mươi hai, cùng con trai, con gái ngắm cây Mai Tứ Quí trồng trong một chậu cảnh lớn. Cây Mai vươn cao, toả cành, những cánh hoa ngả mùa đỏ tím pha ánh vàng vàng, trăng trắng đã hút tôi lại gần cùng ngắm hoa và trò chuyện. Hoá ra cụ Việt trên ba mươi năm qua đã thở cùng hơi ấm của cây và hoa trong đền Ngọc Sơn. Cụ se sẽ chuyện trò:
- Tôi ở mặt trận Điện Biên, ngày thủ đô giải phóng về Hà Nội làm đủ nghề kiếm sống. Năm 1972 chẳng biết do cái gì xui khiến, tôi vào đền Ngọc Sơn thấy cảnh hoang tàn, vắng lạnh, cây cối tiêu điều, xơ xác, Đa, Si gãy cành nằm ngổn ngang sau cơn bão, nhiều cây bị chết. Tôi nhìn thấy cụ Đa sáu bảy trăm năm tuổi đã chết, cụ Rùa không hiểu mấy trăm tuổi cũng ra đi…Lòng tôi thương xót lắm! Từ đó, tôi ở lại trông đền, cùng anh em cứu cây, tạo cảnh. Hai cây hoa Ngọc Lan, hai cây Muỗm, cây Quéo, cây Cau, hai cây hoa Đại (đã chết một cây), khóm Trúc vàng, cây Đại đỏ, hai mẹ con cây Bời Lời..sau đền do tôi trồng, chim về đậu, hót ríu ran. Còn những cây cảnh trong chậu tôi xin ở Văn Miếu về. Ngày xưa có cụ Vình chơi cây nổi tiếng Đông Dương, thấy tôi biết quý cây, đã đưa cây Sanh thế khoằm từ Văn Miếu về đền cho tôi chăm. Hai bể đá chơi cây Si cũng của cụ Vình. Cây Mai Tứ Quí của ông bạn ở An Giang biếu tôi hồi Bắc
Tôi ở đền, chỉ thương cây, thương hoa, thương con cuốc cuốc, thương đến cụ Rùa…mà tiêu hao hết quá nửa cuộc đời. Chẳng biết hồ Gươm có mấy cụ Rùa, nhưng một cụ tịch rồi. Có một cụ đi tìm bạn xưa, bị trúng thương. Một buổi sáng, tôi dạy sớm đi quanh đền, thấy cụ rùa nằm ghếch một nửa thân lên mép hồ. Ngắm vẻ mặt cầu cứu của cụ, tôi thấy có tanh xe đạp đâm vào nách, chắc cụ đau đớn lắm. Tôi tìm cách gỡ tanh, bôi thuốc cẩn thận rồi thả cụ xuống nước. Cụ bởi đi, đàu còn ngoảnh lại, lưu luyến ân tình…