Kịch dân gian đang bị... bóp méo

SÂN KHẤU.- Nhiều kịch bản dân gian chưa tạo được dấu ấn vì chỉ tập trung khai thác chất tấu hài

Kho tàng dân gian với biết bao tích truyện thú vị đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các sân khấu kịch trong thời gian qua. Nếu trước đây nhiều kịch bản đã được dàn dựng và thu hút người xem như: Phương thuốc thần kỳ, Ngẫu hứng Trạng Quỳnh, Của gia truyền, Thượng đế cũng nổi giận, Ðại bàng tung cánh, Vụ án trộm trứng gà... thì hiện nay, thực trạng dựng kịch dân gian với hình thức hài đã gây nên sự nhàm chán.

Bình vẫn cũ, rượu chưa mới

Với phương thức “bình cũ rượu mới”, các vở kịch dân gian trước đây đã dùng tích xưa để nói chuyện hôm nay, phả vào đó những trăn trở, tâm tư... Thể loại kịch dân gian có hai mảng đề tài: đó là phản ánh cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, đồng thời đả phá những quan niệm ấu trĩ, lạc hậu trong cuộc sống. Dựa vào mảng đề tài dân gian, một số đạo diễn đã tạo được cơ hội cho nhiều nghệ sĩ, góp phần khám phá tiềm năng diễn hài tinh tế, điêu luyện của họ như: Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã có vai anh Còng trị bệnh lười biếng cho cả triều đình nhu nhược trong vở Phương thuốc thần kỳ; nghệ sĩ Mai Trần với bí quyết làm bánh đã tạo được nhiều tràng pháo tay thú vị với lối diễn hài duyên dáng trong vở Của gia truyền; NSƯT Việt Anh với vai ông chủ lò sản xuất pháo lậu lợi dụng sự xuất hiện của con đại bàng để “buôn thần bán thánh” trong vở Ðại bàng tung cánh...

Nhưng đa số đạo diễn cho rằng dựng kịch dân gian không dễ. Trước nhất, cảnh trí phải thực sự thể hiện được không gian vở diễn, đồng thời tạo được sự thể nghiệm mới mẻ để không rơi vào đơn điệu như cảnh làng quê thì phải có cây đa, con đò, mái tranh; cảnh triều đình thì có cột rồng, phướn gấm, màn nhung... Kế đến là âm nhạc, đa số lạm dụng chọn nhạc nên một số vở “xác” thì dân gian nhưng “hồn” thì nhạc lại quá “tây”. Chưa kể đến trang phục dễ bị lẫn lộn khi diễn cảnh triều đình Việt Nam mà vua quan lại mặc theo bản sao của phim ảnh Hồng Kông, Trung Quốc.

Tình trạng “tấu hài hóa”

Ðây được xem là cái mốt của một vài sân khấu chuyên khai thác hài, trong đó có Sân khấu Kịch Sài Gòn, Sân khấu 135, Sân khấu Kịch Phú Nhuận. Các vở như: Ðòi vợ, Thị Mầu, Cải tử, Trạng Lợn, Ăn dài dài... đã từng bị dư luận phê phán vì khai thác cái hài phản cảm,  dung tục như: Cảnh chàng Nô bị cô Mầu dụ vào buồng một cách trơ trẽn (vở Thị Mầu); tiên ông dùng ngôn từ quá đời thường kiểu: “chết mẹ rồi”, “mả mẹ mày”... (vở Cải tử); một anh nông dân bán thịt heo vịnh thơ về “trái cật con lợn” nhưng cố nói chạy chữ để tìm tiếng cười dung tục (vở Trạng Lợn)...

Vấn đề đặt ra vẫn là khâu kịch bản quá mỏng. Một số vở được bầu sô đặt hàng, tác giả dựa vào một tích truyện rồi viết vội vàng cốt để có cái sườn, còn phần da, phần thịt thì đạo diễn “phó thác” cho diễn viên. Ðáng buồn hơn khi một số diễn viên chẳng bao giờ chịu đọc kịch bản, thậm chí chẳng cần biết câu chuyện dân gian đó mang tính tư tưởng gì, họ đến sàn tập không mang theo kịch bản, giao “linh hồn nhân vật” cho người nhắc tuồng. Nạn “cùng nhau đẻ miếng hài” cũng đáng báo động, khi một số đạo diễn chào thua các danh hài. Vì thế, có nhiều diễn viên trở thành cái máy chọc cười vô tội vạ, diễn kịch dân gian nhưng ngôn từ quá đời thường. Chính vì dễ dãi mà một số vở kịch dân gian không thu hút người xem. Ðiển hình là vở Ăn dài dài (rạp Nam Quang), khán giả bỏ về giữa suất và có suất  phải trả lại vé.

Kịch dân gian vốn được xem là một viên ngọc quý cần được trân trọng. Những câu chuyện xuất phát từ kho tàng dân gian luôn mang theo bài học sâu sắc về đạo làm người, nhân, nghĩa... trong cuộc sống. Thế nên không thể mượn hình thức dựng và diễn hài làm cho viên ngọc quý bị tì vết bởi những tiếng cười nhảm nhí, rẻ tiền.