Ngắm pháp lang Bắc Kinh nhớ về pháp lam Huế
Pháp lang Bắc Kinh... Trung Quốc có rất nhiều ngành mỹ nghệ đặc sắc, trong số đó pháp lang - hay còn gọi Cảnh Thái lam - được ưa chuộng và nổi tiếng khắp thế giới.
Theo truyền thuyết, công nghệ này du nhập vào Trung Quốc từ thời Đường (618 - 906). Tuy nhiên, chính xác hơn vào đầu thời Minh, triều đình cho thành lập một xưởng chế tạo đồ men pháp lang cốt đồng khảm chỉ (Đồng thai kháp ty pháp lang) tại Nam Kinh. Hiện nay tại "Bắc Kinh Cố Cung bác vật viện" còn lưu giữ những tiêu bản xưa nhất về đồ pháp lang ghi: "ĐẠI MINH TUYÊN ĐỨC NIÊN CHẾ" hoặc "TUYÊN ĐỨC NIÊN TẠO" (1426 - 1435), gồm chậu, tô, dĩa... là men nền chủ yếu là lam thẫm (chàm), các đề tài trang trí dùng men màu vàng, hồng, lục, trắng... Đến thời vua Minh Cảnh Thái (1450 - 1456), tại Bắc Kinh công nghệ pháp lang phát triển đạt đến đỉnh cao. Số lượng lẫn chất lượng sản phẩm vượt xa các thời trước. Có các loại phỏng theo đồ đồng cổ như đỉnh, bình, hồ lô, lư hương. Ngoài các màu men đã có từ thời Tuyên Đức như xanh da trời (thiên lam), lam ngọc (bảo thạch lam), hồng, lục, trắng, thời Cảnh Thái còn xuất hiện các màu men rực rỡ mới lạ, như màu đỏ của nho, đỏ hồng, túy lam. Do đó nhân gian đã gọi luôn sản phẩm là Cảnh Thái lam.
Hiện nay Chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến việc khôi phục lại các ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống để phục vụ thị trường du lịch. Có dịp được tham quan xưởng chế tạo pháp lang tại Bắc Kinh, tôi chăm chú quan sát các công đoạn sản xuất và say mê nhìn ngắm tác phẩm của các nghệ nhân và bỗng bồi hồi nhớ về pháp lam Huế.
Pháp lam Huế
Sử sách cho biết trong quá trình xây dựng kinh đô Huế, vua Gia Long (1802 - 1919), Minh Mạng (1820 - 1840) cho mời một số nghệ nhân Trung Quốc sang đảm trách công việc chế tạo các loại gạch, ngói tráng men lưu ly và đồ men pháp lang để phục vụ việc kiến trúc và trang trí đền đài cung điện. Trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ II Kỷ, tập VIII, trang 327-330 ghi rõ "Đinh Hợi, năm Minh Mạng thứ 8 (1827) mùa đông tháng 11. Đặt tượng cục Pháp lam; Bọn Vũ Văn Mai thợ vẽ ở nội tạo học được nghề làm đồ pháp lam bèn sai đặt cục ấy, hạn cho 15 người thiếu thì mộ mà sung vào". Sở dĩ vua Minh Mạng không dùng từ "Pháp lang" vì lý do:
- Chữ Lan là quốc húy của triều Nguyễn. Căn cứ theo chỉ dụ năm Gia Long thứ 6 (1807) về những điều răn cấm: kính lục các chữ húy đọc đến phải tránh âm, làm văn phải đổi dùng chữ khác. Gồm 6 chữ: Noãn - Ánh - Chủng (các tên của vua Gia Long) - Luân - Hoàn (tên thân phụ và thân mẫu vua Gia Long) và Lan (chính hậu của vua Gia Long - bà Tống Thị Lan. Ngày xưa không phân biệt âm Lan với Lang như ngày nay).
- Người Việt đã học được nghề, chế tạo được sản phẩm theo ý tưởng, sở thích, nhu cầu của mình, nên phải khai sinh chính thức tại Việt Nam.
Do đó vua Minh Mạng đặt tên cho ngành mỹ nghệ cao cấp này là Pháp lam. Cố họa sĩ Phạm Đăng Trí nhận định về màu sắc pháp lam Huế: Các nghệ sĩ làm pháp lam ở Huế đã sớm biết gia giảm liều lượng đậm lạt, nóng lạnh của màu sắc đến độ tinh vi, đã sáng tạo ra những phương thức dùng mảng, dùng màu và phát hiện ra những hòa sắc tương phản rất là chính xác... Pháp lam Huế chứa đựng những màu sắc tươi sáng lộng lẫy có cường độ mạnh nhưng vẫn quen mắt như các hòa sắc điển hình thường hiện ra trong cuộc sống, thường được phản ánh trong nghệ thuật. Ngày nay các nhà hóa học phân tích: Thành phần chủ yếu của men màu pháp lam gồm hỗn hợp của muối axit boric với muối axit silicic, sắc trắng dễ nung chảy vì có nguyên liệu pháp lam trong đó. Bỏ thêm vào một lượng thích hợp sắc tố kim loại bị oxy hóa (oxit kim loại) tức thành màu men pháp lam.
Trải qua các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, công xưởng chế tạo pháp lam tại kinh đô Huế đã sản xuất rất nhiều vật phẩm dùng để trang trí, cúng tế, sinh hoạt theo yêu cầu của hoàng gia và triều đình. Sau biến cố thất thủ kinh đô (1885), vua Đồng Khánh (1886 - 1888) cho tái lập Tượng cục pháp lam. Nhưng rất tiếc vì tài chính eo hẹp nên không đủ điều kiện nhập nguyên liệu từ nước ngoài về chế tạo pháp lam như trước. Các triều vua cuối Nguyễn (Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại) bãi bỏ Tượng cục pháp lam và ngành nghề này dần dần mất tích ngay tại cái nôi đã phát sinh. Giáo sư Nguyễn Du Chi nhận định: "Pháp lam Huế đã mang tư cách về một hướng đi đầu tiên của nền hội họa Việt. Rất tiếc hướng đó không có điều kiện để phát triển dưới thời Pháp đô hộ".
Nhìn ngắm màu sắc tươi vui, rực rỡ của pháp lam Huế xưa trong cảnh nước nhà độc lập, thanh bình khiến lòng người phát sinh biết bao hy vọng. Ước mong năm 2005, tại cố đô Huế sẽ phục hồi thành công xưởng chế tạo pháp lam. Điều này rất cần thiết cho việc trùng tu, tôn tạo các di tích thời Nguyễn. Đồng thời nếu đưa sản phẩm pháp lam phục chế cung ứng cho thị trường du lịch chắc chắn sẽ được du khách trong và ngoài nước thích thú đón nhận.
Thấy pháp lang Bắc Kinh được bảo tồn phát triển đem lại niềm vinh dự cho chính phủ và nhân dân Trung Quốc mà nhớ đến pháp lam Huế khôn nguôi.