Người bắc “Nhịp cầu nối những bờ vui”

Đời nghệ sĩ của ông cũng lặng lẽ như cái tên ông vậy-Văn An. Ông được công chúng biết đến là một nhạc sĩ thuộc thế hệ “lão thành”, tuổi trẻ dọc theo hai cuộc chiến tranh để viết nên những ca khúc trữ tình cách mạng đi cùng năm tháng: Đường lên Tây Bắc, Lá cờ Đảng, Nhịp cầu nối những bờ vui, Đôi dép Bác Hồ, Ấm tình quê Bác...

Nhịp cầu nối những bờ vui nằm trong số những tình ca cách mạng Việt Nam hay nhất. Nó gợi nhớ âm hưởng của những Bài ca xây dựng (Hoàng Vân), Những ánh sao đêm (Phan Huỳnh Điểu)-rất chính trị nhưng cũng rất lãng mạn.

Đây là một ca khúc viết phục vụ bộ đội công binh. Tác giả khi viết xong, tự nghe lại thấy ngài ngại vì nó... lãng mạn quá: Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta. Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo. Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo. Nhịp cầu nối những bờ vui... Nhưng rồi chính ông không ngờ, ca khúc không chỉ được bộ đội công binh tiếp nhận mà nó vươn ra ngoài cho tất cả mọi đối tượng đón nhận và không hề cũ qua bao thế hệ kể từ khi nó ra đời.

Bài hát được phổ từ bài thơ cùng tên của tác giả Phan Văn Từ, trong một tập thơ về chiến sĩ mà ông có được qua một người bạn. Trong làng văn, Phan Văn Từ không phải là một cái tên nổi bật, và dĩ nhiên cũng không được nhiều người biết. Chỉ biết rằng anh đã có một hồn thơ trong sáng và đẹp, về chuyện tình của một anh công binh và một cô thôn nữ đã gây xúc động cho “anh nhạc sĩ” ôm guitar đi dọc chiến trường miền Tây Trung Bộ để sáng tác.

18 tuổi- tức là năm 1950, Văn An đã viết nhạc. Ca khúc đầu tay chính là Đường lên Tây Bắc, mang âm hưởng nhạc tiền chiến. Khi sáng tác ca khúc này, ông chưa qua một trường lớp đào tạo âm nhạc nào. Mãi đến năm 1958, ông mới chính thức được học bài bản trong lớp chuyên về sáng tác đầu tiên do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN mở cùng với Lương Ngọc Trác, Vũ Trọng Hối, Trọng Loan, Tô Hải, Nguyên Nhung, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý...

Sau lớp học này, rất nhiều ca khúc của ông đã ra đời. Những sáng tác của Văn An thường giản dị, tình cảm. Dù là những sáng tác đậm tính chính trị như Lá cờ Đảng, cũng được thể hiện bằng những giai điệu mềm mại. Đặc biệt, những ca khúc về đề tài lãnh tụ như Đôi dép Bác Hồ, Ấm tình quê Bác của ông đi vào những cái bình thường nhất của vị lãnh tụ nhưng đã thành bài hát được yêu mến trong dòng âm nhạc Việt Nam.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến. Thời điểm này ông chơi thân với nhà phê bình văn học Nhị Ca. Ông Nhị Ca có cô em gái cũng tham gia phụ nữ kháng chiến tại Hà Nội. Họ lặng lẽ mến nhau trên con đường kháng chiến gian khổ và tâm giao qua những trang văn đẹp của Tự lực Văn đoàn. Hòa bình lập lại, ông vẫn mải mê với những sáng tác. Mãi đến năm 1958, họ mới nên duyên.

Ông bị tai biến hơn 10 năm nay. Hồi đầu, ông mất nửa năm nằm viện. Với kinh nghiệm của một dược sĩ, bà đưa ông về nhà để vừa tiện theo dõi sức khỏe lại vừa tập cho ông đi đứng, vận động.

Ông nhận thấy mình là người đàn ông hạnh phúc khi gần 80 tuổi, cuộc sống không bị xáo trộn. Đến lúc bệnh tật, bà vẫn luôn bên cạnh. Bao năm nay, những người hàng xóm quá quen với hình ảnh bà chầm chậm đỡ ông tập đi ở cái tuổi hoàng hôn của cuộc đời.