Vang mãi khúc tráng ca từ thành cổ
Thành cổ Quảng Trị không chỉ là một địa danh mà còn là chỉ dấu của một cuộc chiến bi tráng vì giá trị vô cùng cao cả: độc lập, tự do
"Hễ có Việt Nam có cổ Thành/ Nối vòng hoa lửa với Khe Sanh/ Huân chương khó đủ từng viên gạch/ Tấc đất từng giây mỗi lá cành". Nhà cách mạng, nhà văn Trần Bạch Đằng đã viết như vậy khi nói về sự hy sinh và sự thiêng liêng của mảnh đất Việt Nam, đặc biệt là Thành cổ Quảng Trị, trong cuộc chiến chống Mỹ.
Một cõi thiêng bi tráng
Cổ thành chính là Thành cổ Quảng Trị, vào năm 1972 đã làm rung chuyển cả hội đàm Paris khi đang hồi kịch tính của cao trào về đối ngoại. Đó cũng là bối cảnh mà phim truyện "Mưa đỏ" tái hiện cuộc chiến giữ thành 81 ngày đêm, mà dư luận cả nước quan tâm trong những ngày qua.
Nằm cạnh đường thiên lý Bắc - Nam theo Quốc lộ 1A, có con sông Thạch Hãn chảy qua, Thành cổ Quảng Trị này được cả thế giới biết đến như một địa chỉ chiến tranh khốc liệt vào bậc nhất của loài người từ xưa đến nay.
Khốc liệt đến nỗi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gọi nơi này là thành phố tuẫn đạo trong lịch sử Việt Nam và thế giới, thức tỉnh lương tâm nhân loại, lưu vào hậu thế một nơi chốn tâm linh hành hương, một cõi thiêng bi tráng.
Sự ra đời và hoạt động của tòa thành này gắn bó cả thế kỷ với vương triều nhà Nguyễn đóng đô ở Huế. Năm 1809, thành bắt đầu được xây dựng bằng đất đắp, hình chữ nhật, vào triều vua Gia Long. Đến thời Minh Mạng, thành được mở rộng, xây bằng gạch, vôi vữa và mật mía, tổng diện tích của thành là hơn 18 ha.
Kiến trúc thành được hoàn chỉnh vào năm 1837, theo phong cách Vauban của Pháp. Đây là kiến trúc công trình quân sự phức hợp với thành cao, hào sâu có nước bao bọc xung quanh, nhằm vừa phòng ngự tốt và phản công khi cần thiết.
Thành có 4 cổng, theo 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc với tên các cổng thành là tiền, hậu, tả, hữu; thành có 4 góc với 4 pháo đài. Trước mỗi cổng thành đều có một chiếc cầu bắc qua.
Đây là mô hình thu nhỏ và mô phỏng kiến trúc của Hoàng thành Huế. Lối kiến trúc quân sự này phù hợp với thời đại khi vũ khí tấn công không còn là cung tên, giáo mác mà đã chuyển sang vũ khí tân tiến hơn nhiều, như: súng trường, đại bác.
Tòa thành vì vậy không chỉ là lỵ sở của bộ máy cai trị địa hạt Quảng Trị dưới thời phong kiến mà còn là căn cứ quân sự án ngữ phên giậu phía Bắc kinh thành Huế. Hơn thế, trong Thành cổ Quảng Trị còn có hành cung cho nhà vua mỗi lần ngự giá ra Quảng Trị.
Phía Tây thành được ngăn cách bởi sông Thạch Hãn, phía Bắc được che chở bởi sông đào Vĩnh Định - là tuyến giao thông thủy quan trọng. Đông và Nam giáp vùng dân cư và đồng bằng Triệu Hải.
Thành Quảng Trị nằm trên vị trí giao thông hết sức thuận lợi của quốc gia và các tuyến đường tỉnh lộ đi đến các vùng. Từ thành Quảng Trị có thể đi vào Nam ra Bắc bằng đường sông, đường biển hay đường bộ đều tiện. Đó là một vị trí chiến lược hầu như không thể thay thế.
Lưu dấu chân vị vua yêu nước
Chính vì vị thế đắc địa này mà triều Nguyễn đã đôi ba lần muốn di dời lỵ sở Quảng Trị sang nơi khác, nhưng không tìm ra địa điểm như ý.
Nói như vua Minh Mạng thì vị trí thành Quảng Trị xem khắp vùng đất này "không có nơi nào có hình thế sông núi tiện lợi" hơn.
Đủ biết tầm nhìn chiến lược của người xưa khi thị xã Quảng Trị trở thành trung tâm hành chính của tỉnh này suốt gần một thế kỷ, cho đến năm 1972 mới chấm dứt vai trò lịch sử của mình.

Cán bộ và nhân dân phường Quảng Trị dâng hương ở Thành cổ Quảng Trị
Nhân đây, không thể không nhắc đến biến cố thất thủ kinh đô Huế năm 1885.
Sau khi đánh úp quân Pháp đêm 4 rạng ngày 5-7-1885 không thành, Binh bộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi và đoàn tùy tùng xa giá ra Tân Sở (Cam Lộ - Quảng Trị cũ) để chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến chống xâm lược lâu dài. Chiều 6-7-1885, vua và ngự đoàn đã nghỉ lại trong hành cung thành Quảng Trị 3 ngày, sau đó mới đi tiếp ra căn cứ sơn phòng Tân Sở.
Như vậy, thành Quảng Trị là địa điểm quan trọng đầu tiên sau biến động kinh đô, được vua Hàm Nghi và phái chủ chiến nghỉ chân phục hồi sức khỏe và tổ chức lại đội hình trước khi dấn thân vào một cuộc chiến cứu nước dài lâu. Đâu đó trong tòa thành này còn lưu dấu chân vị vua yêu nước - lúc ấy mới thiếu niên, đã quyết chí rời bỏ cung vàng điện ngọc, nếm mật nằm gai, tận hiến đời mình khi Tổ quốc lâm nguy.
Tòa thành này còn chứng kiến sự nổi dậy của văn thân Quảng Trị chống thực dân. Ngày chủ nhật 6-9-1885, nhân đám tang Tham tri Bộ Binh Trương Đăng Để, một nhóm văn thân đã nổi dậy chiếm thành Quảng Trị, cướp kho súng đạn, giải giáp binh lính, bắt tuần phủ Trương Quang Đản phải đóng triện vào tờ lệnh kêu gọi mọi người ủng hộ việc chống những kẻ tiếp tay cho quân xâm lược.
Dù còn nhiều chuyện phải bàn về chính kiến của nhóm văn thân nhưng tiết tháo của những kẻ sĩ thời xưa trước vận nước hưng vong đáng để cho đời sau tiếp bước.
Như muốn xoa dịu nỗi đau
Sử liệu cũng cho biết các thành từ Thanh Hóa trở vào đến Quảng Bình cùng thời cũng theo kiến trúc Vauban nhưng chỉ có 3 cổng, được người xưa đúc kết thành câu nói dí dỏm và ấn tượng: "Thanh vô hậu, Nghệ vô tiền, Tĩnh vô tả, Bình vô hữu", nghĩa là: thành ở Thanh Hóa thì không có cổng sau, thành ở Nghệ An thì không có cổng trước, thành ở Hà Tĩnh thì không có cổng bên trái, thành ở Quảng Bình thì không có cổng bên phải. Riêng thành Quảng Trị có đủ 4 cổng: tiền, hậu, tả, hữu.
Bản đồ thành Quảng Trị năm 1889 được vẽ khá kỹ, mô tả chi tiết những công sở đóng trong thành. Phần lớn các cơ quan đầu não của Quảng Trị đều có mặt trong tòa thành này.
Về sau, khi người Pháp đặt ách thống trị lên toàn lãnh thổ nước ta, về cơ bản vẫn giữ nguyên bộ máy quan lại hành chính như bản đồ này thể hiện. Có một bổ sung không thể bỏ qua, đó là vào năm 1929, người Pháp cho xây và về sau ngày càng mở rộng một trại giam ngay trong thành, gọi là Lao Xá (kéo dài cho đến năm 1972 mới kết thúc), để đày ải những người yêu nước và cách mạng.
Đã có rất nhiều người yêu nước và cách mạng bị giam cầm, đày đọa nơi đây, tiêu biểu như nhà yêu nước Khóa Bảo Nguyễn Hữu Đồng, chiến sĩ cách mạng chân chính Đoàn Lân…
Có rất nhiều điều để nói về Thành cổ Quảng Trị. Nhưng tôi ấn tượng nhất là khi được đại tá Trần Ngọc Long (SN 1941) hiện sống ở Hà Nội - một cựu binh dạn dày vào sinh ra tử trong chiến dịch 81 ngày đêm - kể về cuốn sách độc bản kỳ thư ghi nhận sự hy sinh của khoảng 4.000 liệt sĩ trong trận chiến này, hiện được trân trọng trưng bày trong Bảo tàng Thành cổ.

Đại tá Trần Ngọc Long xúc động khi thăm lại chiến trường xưa
Dạo quanh thành sẽ thấy những tường thành đổ nát, không chỉ bởi hàng trăm năm mưa nắng mà còn bởi đạn bom. Cổng thành chi chít dấu vết của những vũ khí sát thương bậc nhất, được đem ra thi thố nơi đây. Tính ra, số lượng đạn bom trút xuống tòa thành này, trong 81 ngày đêm, tương đương 7 quả bom nguyên tử từng ném vào nước Nhật trong Thế chiến thứ hai.
Còn đây, những hào sâu, ngày xưa được nối với dòng sông Thạch Hãn, sau này trở thành linh giang đất Việt. Rồi những cỏ cây đã mọc lên trên thân phận người đã khuất, như muốn xoa dịu nỗi đau trong sâu thẳm của tâm hồn người Việt Nam. Người chết sẽ đồng hành với hôm nay, khi người sống vẫn còn nhớ họ - đó là đạo lý muôn đời của dân tộc Việt Nam, của tình nghĩa Việt Nam.
Nhớ những người nằm xuống
Khi chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, Thành cổ Quảng Trị đã thành địa chỉ hành hương của đồng bào cả nước và du khách, đồng nghĩa với cõi thiêng - nơi rất nhiều người Việt đã vĩnh viễn nằm lại sau một cuộc chiến tàn khốc khiến cả thế giới phải bàng hoàng.
Từng dòng người nối nhau, trẻ già trai gái tưởng chừng không dứt, đến ngôi đền lớn mang tên Thành cổ Quảng Trị để tưởng niệm những người đã khuất, để chiêm nghiệm sâu hơn về chiến tranh và hòa bình, để cuộc đời vị tha hơn, nhân ái hơn, lấp đi những hố sâu ngăn cách và đẩy lùi tham vọng, bạo lực điên cuồng, cho thương đau của quá khứ hiện về như một lời nhắc nhở nghiêm trang mà ân tình, thành bài học với những người đang sống.
Ông Vũ Ngọc Thấn, ngụ tỉnh Bắc Giang, (cũ) khi đến đây đã nói ông nhớ câu hát "Cỏ xanh non tơ, xin chớ vô tình…". Những người sống hôm nay cũng vậy, làm việc gì cũng luôn nhớ đến những người đã nằm lại đất này.
Một nữ du khách Hà Lan thì chia sẻ ngắn gọn cảm tưởng: "Lần đầu tôi đến thăm di tích, tôi rất ấn tượng với những gì đã diễn ra ở đây trong chiến tranh. Tôi cũng rất chia sẻ cách mà hôm nay các bạn tưởng niệm những người đã khuất".

Du khách chụp ảnh lưu niệm với độc bản sách Thành Cổ Quảng Trị trong Bảo tàng Thành Cổ Quảng Trị
Ông Nguyễn Khánh Vũ - Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Quảng Trị, Bí thư Đảng ủy phường Quảng Trị - bộc bạch: "Thành cổ Quảng Trị không chỉ là một địa danh mà còn là chỉ dấu của một cuộc chiến bi tráng vì giá trị vô cùng cao cả: độc lập, tự do. Hôm nay được sống trong hòa bình, thống nhất thì chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc và đó cũng là mệnh lệnh của trái tim".
Cháy bỏng khát vọng hòa bình
Một Quảng Trị tưởng không có gì đặc biệt; một ngày của yên bình từ lâu rồi không còn nghe tiếng súng; một ngày của đám trẻ nô đùa vô tư ở chính nơi ngày xưa là chiến tranh, là tử địa rúng động cả năm châu. Tất cả êm đềm như lời kinh nguyện cầu thầm thì trong lồng ngực, nhắn nhủ hết thảy chúng ta biết cách chung sống an lành.
Đó cũng là tâm nguyện cháy bỏng không chỉ của người dân Quảng Trị khi xây dựng đề án để biến mảnh đất này thành nơi tổ chức "festival hòa bình".