Tháng 9-1991, Julian Assange xâm nhập trạm đầu cuối chính của Công ty Viễn thông Canada Nortel đặt tại Melbourne, Úc. Lúc đó Julian tròn 20 tuổi, vẫn hoạt động trong nhóm hacker International Subversives.
Julian thường xâm nhập hệ thống máy tính của Nortel vào ban đêm. Đó là lúc hệ thống ở trong tình trạng lơ mơ. Nhưng một đêm nọ, có một quản lý mạng của Nortel trên hệ thống. Cảm thấy bị bắt quả tang, Julian nhắn tin: “Tôi đã nắm quyền kiểm soát hệ thống”. Julian viết nửa đùa nửa thật nhưng không xưng tên.
“Từ lâu, tôi loay hoay trong bóng đêm. Bây giờ, cuối cùng tôi đã thấy ánh sáng”- Julian viết tiếp. Tay quản lý không trả lời. Julian gửi tiếp một tin nhắn: “Thật là thú vị khi dạo chơi trên hệ thống của anh. Chúng tôi không làm gì có hại cả. Xin đừng báo Cảnh sát Liên bang Úc”.
Ác mộng
Việc nhóm International Subversives xâm nhập hệ thống máy tính của Nortel trở thành một đầu mối thông tin quan trọng của Chiến dịch Thời tiết, chuyên án của Cảnh sát Liên bang Úc về nhóm tin tặc International Subversives.
Ken Day, trưởng nhóm điều tra, nhận định: “Julian là tin tặc giỏi nhất và bí ẩn nhất trong nhóm. Động cơ của y mang tính vị tha. Theo tôi nghĩ, Julian hành động theo đức tin ai cũng có quyền tiếp cận bất cứ thứ gì”.
Julian Assange rất sợ bị bắt. Quyển Underground (một cuốn sách Julian viết chung với nhà văn Suelette Dreyfus) mô tả “Mendax (nickname của Julian Assange) thường nằm mơ thấy bị cảnh sát truy đuổi ráo riết, nghe tiếng chân nghiến trên con đường đầy sỏi đá, thấy bóng người chập chờn trong bóng đêm nhạt nhòa, thấy họng súng tự động đen ngòm của cảnh sát đột nhập nhà bằng cửa sau lúc 5 giờ sáng”.
Julian chỉ có thể cảm thấy nhẹ lòng khi anh giấu đĩa vi tính trong cái tổ ong anh nuôi trong nhà. Tháng 10-1991, Julian lâm vào cảnh vô cùng khốn khó. Vợ anh bỏ nhà theo trai, đem theo đứa con trai. Julian hầu như không ăn uống, ngủ cũng rất ít. Ngày 29-10, Ken Day gõ cửa, bước vào nhà Julian: “Tôi nghĩ rằng anh đang đợi tôi”.
Julian Assange sống trong nỗi sợ hãi bị bắt
Assange bị cáo buộc 31 tội danh bao gồm tội xâm nhập bất hợp pháp các hệ thống máy tính và các tội liên quan khác. Trong khi chờ ngày hầu tòa, Julian bị suy nhược thần kinh phải nhập viện.
Chính quyền Úc mất hơn 3 năm để đưa Julian Assange và các thành viên khác của nhóm International Subversives ra tòa. Một nhóm an ninh mạng làm việc cho Nortel ở Canada báo cáo rằng những cuộc xâm nhập hệ thống máy tính Nortel gây thiệt hại nghiêm trọng. Tiền sửa chữa có thể hơn 100.000 USD.
Julian Assange đối mặt với nguy cơ lãnh án 10 năm tù giam nếu báo cáo trên chính xác. Julian mua quyển Vòng đầu của nhà văn Nga Alexandr Solzhenitsyn viết về các nhà khoa học và kỹ thuật viên bị lưu đày, đọc tới đọc lui ba lần vì cảm thấy “sao giống cuộc đời mình”.
Julian cho rằng việc xâm nhập máy tính để “dòm ngó” chẳng có tội tình gì vì trên thực tế anh chẳng làm gì có hại cho hệ thống cả. Anh quyết định chống án tới cùng. Cuối cùng, Julian nhận 25 tội danh. Sáu tội danh khác bị hủy bỏ.
Tuy nhiên, trong phiên xử cuối cùng, chánh án kết luận: “Không thấy có chứng cứ nào khác ngoài chuyện tò mò và khoái cảm được lướt sóng trên các máy tính”. Julian Assange chỉ bị phạt một số tiền nhỏ.
Cuộc chiến giành con
Sau khi kết thúc vụ án trên, Julian và mẹ lao vào một cuộc chiến khác, lần này là chiến dịch giành quyền nuôi con trai của Julian. Cuộc chiến này cam go và khó khăn hơn vụ án tin tặc.
Julian và mẹ – bà Christine- đưa ra lý lẽ rằng vợ Julian và bạn trai mới của cô ta là một mối đe dọa cho đứa bé. Nhưng, Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Úc (HCS) không chấp nhận lập luận của Julian, viện cớ không rõ ràng.
Cuộc chiến giành nuôi con bất thành càng khiến cho mẹ con Julian Assange căm ghét chính quyền. Bà Christine nói: “Những gì chúng tôi thấy là cả một bộ máy quan liêu khổng lồ chèn ép dân chúng”.
Bà Christine và Julian cùng với nhiều người thành lập một tổ chức mang tên Cha mẹ Thẩm tra việc Bảo vệ trẻ em. Họ vận dụng luật tự do thông tin Úc để tiếp cận tài liệu của HCS, tổ chức rải tờ rơi, khuyến khích các nhà hoạt động bảo vệ trẻ em thu thập thông tin nội bộ để lập “ngân hàng dữ liệu trung ương”.
Năm 1999, sau gần 30 phiên điều trần và kháng án. Julian đạt được một thỏa thuận với vợ về việc nuôi con. Trong thời gian này, theo lời bà Christine, cả hai mẹ con đều mắc chứng hậu sang chấn stress giống như bệnh của binh sĩ Mỹ trở về nhà sau khi tham chiến ở Iraq. Đặc biệt, tóc của Julian vốn màu đen nâu đã biến đổi thành đủ màu.
Có một thời gian Julian đến Việt Nam cưỡi mô tô rong ruổi khắp hang cùng ngõ tận. Anh làm nhiều nghề khác nhau, kể cả nghề tư vấn an ninh mạng, để sống. Anh dùng số tiền tiết kiệm được chu cấp cho con.
Trở về Úc, Julian ghi danh học môn vật lý ở Trường Đại học Melbourne với kỳ vọng giúp ích được nghề tin tặc. Nhưng kết quả không được như ý. Là học trò của Kafka, Koestler và Solzhenitsyn, Julian tin rằng sự thật, sáng tạo, tình yêu và đam mê đã bị các thể chế hiện hữu hủ hóa, tinh thần con người bại hoại.
Julian phác thảo một tuyên ngôn chống việc “cai trị bằng âm mưu”, áp dụng lý thuyết đồ thị vào chính trị. Julian tin rằng các thể chế chính trị âm mưu dùng bí mật để tồn tại, bất chấp lợi ích của nhân dân. Triệt tiêu được bí mật, làm cho dòng thông tin giữa những kẻ âm mưu bị teo tóp đến mức gần bằng không thì sẽ không còn âm mưu nữa. Rò rỉ bí mật trở thành một công cụ của chiến tranh thông tin. Đó là lý do ra đời WikiLeaks.
Kỳ tới: Vô gia cư
Bình luận (0)