Hai ngày 9 và 10-12, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (KHXH-NV) TPHCM tổ chức hội thảo quốc tế “So sánh phong trào “Văn minh hóa” ở Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”. Hội thảo đã tập hợp đông đảo các nhà khoa học đến từ các trường ĐH ở Nhật, như: ĐH Waseda, ĐH Ngoại ngữ Tokyo, ĐH Hiroshima, ĐH Công nghệ Fukuoka, ĐH Phúc lợi Niigata, ĐH Hosei… và nhiều chuyên gia đầu ngành từ nhiều trường ĐH ở Việt Nam.
Tiếp nhận nhưng không rập khuôn
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Tận (ĐH Huế), ngày đó Việt Nam cũng có nhiều nhà canh tân nhưng chỉ là những trí thức độc lập, những sĩ phu yêu nước lãnh đạo phong trào chứ không đứng dưới danh nghĩa của nhà vua, nên ảnh hưởng văn minh phương Tây chỉ đến với một số tầng lớp nhân dân nhất định, chứ không phải toàn dân.
Các đại biểu đang theo dõi báo cáo tham luận
Trong khi đó, sự tiếp nhận văn minh phương Tây ở Nhật Bản là triệt để, toàn diện và trực tiếp. Đặc biệt, Nhật Bản không áp dụng rập khuôn theo bất kỳ mô hình nào của phương Tây. Họ thực hiện chính sách đa mô hình hóa để xây dựng đất nước. Chẳng hạn, về kinh tế - tài chính, họ xây dựng hệ thống ngân hàng theo mô hình của Mỹ, tạo mọi điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển; về an ninh – quốc phòng, họ áp dụng mô hình hải quân của Anh, nhưng lục quân lại theo mô hình của Pháp; về văn hóa – giáo dục, họ nhấn mạnh sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa phương Đông với khoa học kỹ thuật phương Tây; họ thiết lập một hệ thống giáo dục theo mô hình của Pháp từ tiểu học đến trung học, còn ở bậc ĐH thì theo mô hình của Mỹ…
Nhờ đó, từng bước Nhật Bản đã yêu cầu các nước phương Tây xóa bỏ những hiệp ước bất bình đẳng mà chính quyền Tokugawa đã ký. Và kể từ năm 1911, Nhật Bản được các nước phương Tây nhìn nhận như một thành viên bình đẳng trên chính trường quốc tế.
Tâm đắc với cách tiếp nhận văn minh phương Tây của Nhật Bản từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, PGS-TS Nguyễn Tiến Lực (Trường ĐH KHXH-NV TPHCM) cho rằng những bài học ấy vẫn chưa cũ. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cũng cần nghiên cứu.
Học hỏi để vượt qua phương Tây
Nhiều đại biểu cho rằng thời phong kiến của Nhật Bản cũng giống như thời phong kiến ở Việt Nam, nghĩa là cũng bế môn tỏa cảng, cũng dùi mài Tứ thư, Ngũ kinh, cũng cấm đạo, và cũng bị buộc phải ký kết những hiệp ước bất bình đẳng với phương Tây… Thậm chí, ngày đó Nhật Bản còn tình trạng cát cứ, còn nhiều ngôn ngữ bất đồng.
Thế nhưng, chính quyền Minh Trị đã mạnh dạn đổi mới, xác lập ngôn ngữ chuẩn quốc gia; chính thức sử dụng dương lịch từ năm 1872 (Minh Trị 5); áp dụng cách chia 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần; ban hành lệnh xuống tóc, cắt chỏm tóc búi thành kiểu tóc nam giới như hiện nay; khuyến khích người dân mặc Âu phục và đội nón, mang giày…
GS-TS Nakayama Tomihiko (ĐH Hiroshima) cho biết thêm những năm cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản tiến hành Minh Trị Duy tân với tinh thần “học hỏi phương Tây, tiến đến đuổi kịp phương Tây, vượt qua phương Tây”. Làn sóng văn minh khai hóa ấy đã lan tràn khắp các thành thị cho đến nông thôn.
Năm 1872, chính phủ công bố học chế và đưa ra kế hoạch thành lập 53.760 trường tiểu học khắp cả nước. Để làm được việc này, trước mắt là mượn nhà dân, mượn chùa làm trường học và có quy chế rõ ràng, trước hết là quy định thái độ đối với cha mẹ, tiếp đến là thái độ đối với thầy cô, rồi đến những điều chú ý trong giờ học, giờ đến trường, tan trường. Quy chế còn quy định chi tiết những hành động trong cuộc sống hằng ngày... Những bài học hữu ích cho Việt Nam Theo TS Nguyễn Khắc Cảnh, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH KHXH-NV TPHCM, những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giới trí thức Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc vận động yêu nước, như phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… Các nhà lãnh đạo các phong trào này đều đánh giá cao sự nghiệp “văn minh hóa” của Nhật Bản, coi đó là tấm gương cho Việt Nam trong sự nghiệp khai dân trí, chấn dân khí, hướng tới cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Nay chúng ta nhìn lại, so sánh rất có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, có thể rút ra những bài học hữu ích cho tiến trình hiện đại hóa ở Việt Nam. |
Bình luận (0)