Đám cưới không họ hàng
Buổi trưa mùa gió Tây Nam, dù nhà ở gần biển nhưng vẫn cứ hanh nồng. Thỉnh thoảng, anh Tân lại dừng tay, cầm chiếc quạt nan quạt cho mình và vợ. Chị Thu thì chốc chốc liếc mắt nhìn qua chân phải của chồng, xem có con muỗi nào lai vãng bên một bộ phận cơ thể đã không còn cảm giác vì bệnh phong của anh hay không.
“Tôi phát hiện bị bệnh phong từ năm 13 tuổi, được gia đình gửi vào đây chữa trị. Tôi lớn lên trong sự bảo bọc của các y - bác sĩ và những người bệnh phong. Năm 20 tuổi, tôi gặp Thu. Cô ấy cũng là một bệnh nhân phong, không muốn trở về quê vì sợ những ánh mắt thương hại” - anh Tân nhớ lại.
Lúc ấy, những khi ra khơi hay đi biển về, anh Tân lại thấy chị Thu ngồi lặng lẽ ở bến dõi theo. Thế là chàng trai ở xứ đầy nắng gió Tháp Chàm (Ninh Thuận) đem lòng yêu cô gái xứ dừa Tam Quan (Bình Định). “Đám cưới của tụi tôi không dám báo tin cho gia đình vì ngại, chỉ có Ban Hội đồng bệnh nhân Quy Hòa đứng ra tổ chức và hầu hết bệnh nhân phong đến chung vui, chúc mừng” - chị Thu tâm sự.
Ở làng phong Quy Hòa, các cư dân đã bầu ông Trần Công Nghĩa làm Trưởng Ban Hội đồng bệnh nhân. Trò chuyện cùng những bệnh nhân phong ở đây, chúng tôi được biết ông Nghĩa không chỉ nhiệt tình, thường quan tâm đến người khác mà còn làm thay đổi một phần cái nhìn kỳ thị của một số người về bệnh nhân phong.
Ông Nghĩa vốn ở TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, được gia đình đưa đến Quy Hòa chữa bệnh phong năm 14 tuổi rồi ở lại luôn. Trong những lần trùm mũ giấu mặt ra bên ngoài làng chơi, ông gặp được bà Nguyễn Thị Hạnh - một phụ nữ buôn bán nhỏ ở phường Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn.
“Ngày ấy, định kiến của nhiều người về bệnh phong còn nặng nề lắm. Gia đình Hạnh kịch liệt phản đối tôi. Không biết bao lần tôi đã quỳ trước gia đình Hạnh để xin cưới cô ấy. Cha mẹ Hạnh vẫn một mực bảo không là không. Không chỉ sợ lây bệnh, họ còn lo con gái cưới một người như tôi - 2 bàn tay co rút, 1 chân mất cảm giác vì bệnh - thì không có cách gì để sinh sống” - ông Nghĩa kể.
Thế nhưng, cuối cùng, ông bà cũng vượt qua được mọi sự cấm đoán. “Tôi quyết đến với anh ấy. Lấy nhau là lo cho nhau chứ đâu thể dựa dẫm vào ai” - bà Hạnh thổ lộ. Giận con gái, ngày cưới của họ, gia đình phía bà Hạnh không ai dự. Ông Nghĩa lặng lẽ kết hôn nên gia đình ông cũng không hay biết. Ban Hội đồng bệnh nhân Quy Hòa đứng ra tổ chức hôn lễ, khách chủ yếu vẫn là bệnh nhân phong và vài người bạn chí thân của cô dâu.
Nương tựa bên nhau
Trời tờ mờ sáng, nhiều phụ nữ ở làng phong Quy Hòa lại lục đục kéo nhau ra bến Ghềnh Ráng đợi chồng đi biển về. Gần 5 giờ, thuyền anh Nguyễn Hữu Trí về bến.
Với chân trái cà nhắc do mất hết ngón và không còn cảm giác vì bệnh phong, một mình Trí không thể đẩy được chiếc thuyền lên bãi cát. Vợ anh, chị Trần Thị Nguyệt, đang đợi sẵn trên bến, bước vội ra phụ chồng. Anh vác lưới, chị xách mớ cá chồng đánh bắt được trở về. Họ hầu như không nói với nhau câu nào. Anh chỉ đưa mắt dịu dàng nhìn chị, còn chị thì đưa bàn tay đã rụng gần hết ngón phủi phủi mớ cát còn dính trên lưng chồng.
“Những cặp vợ chồng ở làng phong Quy Hòa này đúng nghĩa là chung sống nương tựa nhau. Vợ mất tay, chồng mất chân, họ cần nhau để sống. Một người làm không nổi thì 2 người. Cứ thế, họ gắn kết luôn bên nhau” - ông Trần Công Nghĩa nhìn nhận.
Theo ông Nghĩa, cũng như các gia đình bình thường, con cái là sự kết tinh của tình yêu trong mỗi tổ ấm của bệnh nhân phong. Tuy nhiên, để giữ được hơi ấm trong mỗi mái nhà là điều không dễ. Nhiều trẻ sinh ra ở làng phong sau khi học hết tiểu học ở Quy Hòa đành bỏ ngang. Ít có em nào dám bước qua khỏi đèo Ghềnh Ráng để ra bên ngoài học vì mặc cảm.
Người con đầu của ông Nghĩa cũng phải chịu cảnh ấy. Nhưng rồi, bằng sự động viên, bằng nỗ lực chứng tỏ mình không tàn phế của những bậc cha mẹ đã dần xóa đi mặc cảm của các em. Từ vài em, giờ đây, làng phong Quy Hòa đã có nhiều bóng áo trắng gò lưng trên những chiếc xe đạp vượt đèo đến trường. “Nhiều cháu đang bước vào ngưỡng cửa đại học, cao đẳng. Gia đình tôi cũng có 2 con đang học cao đẳng” - ông Nghĩa tự hào.
Tĩnh lặng, mong manh Một cảm giác rất lạ nếu ai đó lần đầu đến làng phong Quy Hòa. Tất cả đều tĩnh lặng. Bến cá nơi khác vốn xô bồ nhưng ở đây không hề rộn ràng mua bán. Người quen gặp nhau trong làng chỉ chào hỏi đủ nghe. Trong mỗi mái nhà, tiếng cười cũng chỉ đủ ấm. “Cái gì ở đây cũng dễ vỡ. Tình yêu, lòng tự trọng và cả tính mạng con người cũng mỏng manh. Chính họ và cả chúng tôi đang cố giữ cho sự mỏng manh ấy không vỡ. Vì thế mà nơi đây luôn yên bình” - một bác sĩ ở Bệnh viện Phong - Da liễu Trung ương Quy Hòa nhận xét. |
Bình luận (0)