Bí ẩn "quái vật" Đà giang
Nhiều lần ngược xuôi miền rừng thiêng nước độc Tây Bắc, tôi đều bị sông Đà kỳ vĩ hút hồn. Bản làng, núi rừng bên sông có thể ngắm nhìn, sờ chạm được, nhưng những gì bí ẩn dưới đáy nước hoang thẳm như có ma lực với lữ khách Đà giang. Suốt buổi chiều mưa rừng lúc dồn dập khi réo rắt trên cành lá như tiếng nhạc rừng, tôi ngồi co ro bên bờ sông xã Suối Bàng, huyện Mộc Châu, Sơn La, lặng nhìn các thợ săn của dòng sông huyền bí này chuẩn bị một chuyến săn trong cơn lũ thượng nguồn đổ về. Tổ tiên họ bao đời truyền nối giữ lửa nghề săn kình ngư trên dòng sông này rồi giờ đến họ lại chuẩn bị truyền lại nghe cho con cháu đời sau. Săn cá sông Đà với họ không chỉ để mưu sinh, mà còn là sự quyến rũ và thử thách lòng dũng cảm, sự tài ba của những người con rừng thiêng.
Lầm lì mài lại chiếc lưỡi câu cho thật sắc, mãi lát sau Mùi Văn Dừ mới ngẩng lên với tôi: “Nhìn lưỡi câu to thế chứ nó đã từng bị mấy con cá quái dưới đáy sông Đà kéo thẳng đơ như cây đũa đấy. Cha tôi ngày xưa còn bị nó nhấn chìm thuyền, kéo phăng mất tích cả người". Dừ là một thanh niên dân tộc Mường, năm nay mới tuổi hai mươi bẻ gãy sừng trâu. Là thợ săn cá giỏi đã từng hạ gục những con cá chiên, cá lăng to như con heo rừng, nhưng Dừ vẫn chỉ là lứa con cháu của những thợ săn lão luyện. Già bản Mùi Văn Khương, nguyên chủ tịch xã Suối Bàng, kể cho tôi nghe có những thợ săn đã đến đời thứ tư, thứ năm tung hoành trên sông Đà. Còn nhiều đời tổ tiên trước nữa chắc chắn cũng thông thạo nghề sông nước này, nhưng ký ức con cháu về họ đã phai nhòa, mờ mịt như sương khói rừng thiêng.
Một đoạn sông Đà thơ mộng ở Mộc Châu, Sơn La
Những thợ săn huyền thoại
Trăng thượng tuần xanh lạnh khuất dần sau đỉnh núi. Đêm như dài vô tận bên bếp lửa rừng âm u và hơi ấm rượu bắp. Tôi chếnh choáng men say nghe những thợ săn cá sông Đà khề khà những câu chuyện đường rừng hoang thẳm. Họ tâm sự Đà giang từ thượng nguồn chảy dần xuống xuôi và nhập thành một với sông Hồng ở Phú Thọ. Nhưng chỉ ở các đoạn chảy qua núi rừng, sông Đà mới thường có các loài cá khổng lồ. Họ nói chỉ địa hình núi rừng mới có ghềnh thác chảy xiết, mà cá lớn thì hiếm loài nào chịu được sự lờ đờ, bình lặng, chậm chạp của dòng sông.
Bao đời người dân Tây Bắc như già Khương đã khẳng định Đà giang rất nhiều cá. Và các thợ săn từ xưa đến nay đều truyền tụng cá chiên, cá lăng, cá chình là "vua” các loài cá trên dòng sông này. Chúng là loại cá da trơn, ăn mồi ở đáy sông và rất ưa ẩn mình trong các hang hốc. Mùa khô nước cạn, các loài cá này như biến mất dưới đáy sông. Nhưng khi mưa rừng trút nước, lũ cuồn cuộn đổ về, chúng lại tung hoành xuất hiện. Bây giờ, người ta thường chỉ bắt được cá cỡ 5 - 7 kg, nhưng ngay cả trong ký ức những thợ săn trung niên cũng đã từng chứng kiến nhiều kình ngư 50 - 70 kg, thậm chí cả trăm ký. Đoạn sông nào càng có nhiều hốc đá thì chắc chắn càng nhiều “vua” cá, vì cả cá chiên, cá lăng lẫn cá chình đều ăn mồi dưới đáy sông và thường ẩn mình trong các hốc đá.
Ông Mùi Văn Áng, một thợ săn đã 60 tuổi ở huyện Mộc Châu, Sơn La, từng tung hoành vùng lòng hồ Hòa Bình từ khi chưa thành thủy điện, hào hứng kể: “Thời giờ rừng thưa, sông cạn nên hiếm thấy, chứ ngày xưa có những thợ săn tài giỏi chỉ dò hốc đá là biết có cá hay không. Mà cũng đâu cần dò, bởi thác ghềnh, hang hốc nào dưới lòng sông này mà họ chẳng thuộc nhẵn như bàn tay. Cách bắt cá của họ cũng rất dũng mãnh, khéo léo. Chẳng cần lưỡi câu, họ cầm xiên sắt nhọn lặn xuống hang đá để đâm cá. Bạn săn ngồi đợi trên thuyền chỉ nhìn thấy máu đỏ sủi lên là biết thợ săn đã đâm trúng được cá, nhưng đôi khi trong màu đỏ ấy có cả máu người vì bị ngạnh cá cứng đâm lại. Cuối cùng, cả xác cá lẫn xác người lờ đờ nổi lên mặt sông. Có thợ săn đến chết tay vẫn không chịu rời con cá mình đâm được. Sau đó, con cá vấy máu người này lại được dân bản cúng ma cho chính thợ săn xấu số ấy”!
Con cá chiên nặng hơn năm ký vừa bắt được ở sông Đà
Cạn cùng tôi ly rượu bắp nóng bừng, ông Áng lầm rầm kể có người cha Mùi Văn Quạch cũng từng là thợ săn cá sông Đà khét tiếng những năm 1930-1940 của thế kỷ trước. Có lẽ, ông Quạch là một trong nhũng người Mường ở huyện Kim Bôi, Hòa Bình hiếm hoi đã lóc cóc đi ngựa xuống tận Hà Nội để mua thép cứng về uốn lưỡi câu. Đó là những thanh thép xanh chở tàu từ Pháp qua, to gần bằng cây đũa ăn. Rồi để làm thành một lưỡi câu, ông phải mất cả tuần cặm cụi mài giũa ngạnh sắc bén với đá cuội bên suối nước. Thuở ấy, hầu như chỉ mỗi người Pháp là có thuyền máy trên sông Đà. Ông Quạch một mình, một thuyền độc mộc chèo tay ngược xuôi trên dòng sông này. Có những chuyến đi săn của ông mất cả tuần trăng. Đến khi ông về người sút hơn năm ký và kéo theo sau thuyền một con thủy quái “cá chiên” dài gần bằng người ông.
Và tiếng thở dài của dòng sông
Những chai rượu bắp đầy tràn rồi cũng đến lúc dần cạn, nhưng hình như các chứng nhân Đà giang một thời huyền thoại vẫn chưa say. Hình như những chủ nhân của núi rừng này muốn một lữ khách miền Nam ngoại đạo với Tây Bắc như tôi cảm nhận dược dù chỉ là một chút gì đó tình yêu rừng thiêng sâu thẳm của họ. Già làng Mùi Văn Khương trầm giọng tâm sự ngày nay nhiều người con núi rừng vẫn sống chết với dòng sông, nhưng bà mẹ sông nay thì đã buồn hơn xưa rồi! Các thủy điện nối tiếp nhau mọc lên chặn đứt dòng chảy cho cá di cư, sinh sản. Đà giang cũng đâu còn mấy con lũ vừa cuồn cuộn hung hãn vừa hấp dẫn, gọi mời lữ khách. Ngậm ngùi nhất là dân cư Tây Bắc ngày càng đông hơn, người dưới xuôi cũng đổ lên núi làm ăn và nghĩ ra nhiều cách bắt cá độc địa. Thợ săn sông Đà xưa truyền đời chỉ bắt cá lớn và bắt đủ ăn hoặc chia cho bà con trong bản, chẳng mấy ai buôn bán. Bây giờ, người ta nghĩ ra các loại lưới vơ vét cả cá lớn, cá nhỏ, cá mới sinh, rồi dùng cả thuốc độc, mìn để tận diệt.
Và chẳng ai muốn huyền thoại Đà giang chỉ còn là... huyền thoại được truyền kể từ ngày xưa!'
Đà giang, đầu đông 2011
Bình luận (0)