Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Đoàn Luật sư TP HCM, trả lời: Hợp đồng tặng/cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, bên tặng/cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng/cho mà không yêu cầu đền bù; còn bên được tặng/cho đồng ý nhận.
Việc tặng/cho bất động sản phải được lập thành văn bản và phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký. Theo quy định của pháp luật thì bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Trong trường hợp của chị, nếu tặng/cho quyền sử dụng đất cho mẹ chồng thì phải thực hiện thủ tục công chứng và phải được đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan có thẩm quyền sau khi thực hiện việc công chứng hợp đồng.
Chị đã thực hiện việc công chứng hợp đồng tặng/cho quyền sử dụng đất theo quy định. Tuy nhiên, việc tặng/cho chỉ hoàn thành khi thực hiện xong thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp chưa thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng thì có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng tặng/cho theo quy định. Theo quy định tại khoản 1, điều 51 Luật Công chứng 2014 thì "việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó".
Như vậy, nếu chị muốn hủy hợp đồng tặng/cho quyền sử dụng đất thì cần có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của cả mẹ chồng (người được tặng/cho) và văn bản thỏa thuận. Cam kết này cũng phải được công chứng theo quy định.
Trường hợp có đầy đủ căn cứ để chứng minh việc tặng/cho đó là do nhầm lẫn hay bị lừa dối, đe dọa… hoặc rơi vào các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ Luật Dân sự, chị có quyền khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng/cho quyền sử dụng đất đó vô hiệu.
Bình luận (0)