Đây không phải lần đầu thực trạng và giải pháp phát triển văn học nghệ thuật được Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, nghệ thuật trung ương mang ra bàn luận. Thế nhưng, thời điểm nào cũng có những lý do khiến mọi giải pháp đều chỉ “nói cho có và bất khả thi”. Hội thảo lần này được đặt ra quyết liệt, tạo niềm tin hơn khi có hàng loạt giải pháp được đề cập nhưng chưa biết có đủ sức làm thay đổi cục diện hay không.
Phải thực sự xem trọng văn hóa nghệ thuật
Nhà văn Vũ Hạnh lên tiếng: “Cần xem văn hóa nghệ thuật như các ngành kinh tế trọng điểm khác, có như thế nhà nước mới chú trọng đến việc đầu tư đúng mức cho văn nghệ sĩ”. Nhà văn Chu Lai ví von: “Tác phẩm viết 3 năm, số tiền đặt hàng trả cho nhà văn chỉ bằng 1 đêm diễn của ca sĩ hạng sao. Trong khi đó, sân khấu gian nan để sáng đèn, điện ảnh buông tay cho các đơn vị tư nhân tự thu tự chi. Mọi gánh nặng gạo tiền đều đổ lên vai những người làm nghệ thuật”. Theo TS Lê Thành Nghị, hiện nay, chưa có một chế độ đãi ngộ nào xứng đáng với văn nghệ sĩ. Trước tiên, phải bảo đảm cho họ sống được từ tác phẩm sáng tác. Cuộc sống không ổn định thì không ai còn tâm trí đâu mà sáng tạo.
“Chúng tôi đang cố gắng làm thế nào để có thể phối hợp với Ban Tuyên giáo, Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, nghệ thuật trung ương hỗ trợ sáng tác cho văn nghệ sĩ trong thời gian tới” - ông Vương Duy Biên, Thứ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, cho biết. Tuy nhiên, theo ông Biên, điều cốt lõi là cần có tài năng và môi trường sáng tạo nghệ thuật đúng nghĩa. “Ngày xưa chống Pháp, chống Mỹ, điều kiện sống kém, thiếu thốn mọi mặt nhưng vẫn có được tác phẩm hay. Nhà văn phải luôn không bằng lòng với chính mình và tự rèn luyện tài năng sáng tạo” - ông Biên nói thêm. Theo bà Nguyễn Thị Hồng Ngát, Phó Chủ tịch Hội Điện ảnh Việt Nam, câu hỏi “Làm phim để làm gì, cho ai?” chưa bao giờ được trả lời rốt ráo từ cả hệ thống quản lý lẫn người sáng tác trong những năm qua. Bài học phát triển đội ngũ nhân lực từ điện ảnh Hàn Quốc cũng được các đại biểu mang ra so sánh, mổ xẻ. Hiểu rõ quy trình phát triển nghệ thuật, hỗ trợ nhân tài của xứ người nhưng cả một thập kỷ chúng ta vẫn loay hoay chưa làm được. Nhiều giải pháp đề ra còn ở mức khái quát, “vĩ mô” như: đưa vào giảng dạy các trường phái mỹ thuật thế giới, tổ chức không gian giao lưu văn hóa các nước… “Giải pháp nói ra thì dễ nhưng thực hiện lại lúng túng. Bao nhiêu năm rồi, nói nhiều mà thay đổi được gì” - đạo diễn Trần Minh Ngọc ưu tư.
Để công chúng định giá trị
“Thực tế cho thấy những tác phẩm có tầm ảnh hưởng và nghệ thuật cao thường long đong. Từ thời Vũ Như Tô của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1941) đã phải nằm yên trước sự phán xét nghiệt ngã của thời gian và giới nghiên cứu, để rồi hơn nửa thế kỷ sau mới được vinh danh là tác phẩm đỉnh cao, có thể sánh ngang với các kiệt tác bi kịch trên thế giới” - PGS-TS Phan Trọng Thưởng nhìn nhận.
Nhìn rộng ra có thể thấy nhiều tác phẩm hay cũng có số phận tương tự: Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi; Bạch đàn liễu, Mùa hè ở biển, Đợi đến mùa xuân… của Xuân Trình; Hà My của tôi, Nhân danh công lý của Doãn Hoàng Giang - Võ Khắc Nghiêm, Bài ca giữ nước của Tào Mạt… cũng từng bị coi là có vấn đề trước khi đến được với công chúng. “Đến cả những tác phẩm có giá trị vượt thời đại của Lưu Quang Vũ cũng đã từng bị dư luận chính thống nhiều lần lên tiếng phản kháng gay gắt. Nếu không có được sự điềm tĩnh trong chỉ đạo, sự nhiệt tình bảo vệ của hội nghệ sĩ sân khấu và những người làm nghề thì đã không thể nào mang lại giá trị xứng đáng cho những vở kịch như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, Cô gái đội mũ nồi xám…” - GS Mai Quốc Liên nói.
Ở lĩnh vực văn học, các tác phẩm Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… cũng từng có những dư luận trái chiều, phía ca ngợi, phía lên án không kém phần gay gắt. Nhưng những tác phẩm này đã tồn tại và có sức sống mãnh liệt với thời gian từ sự thẩm định của quần chúng.
Hai mặt của vấn đề: Tự do sáng tạo phải có giới hạn trong những chuẩn mực nhưng sự bản lĩnh, cởi trói tư duy sáng tạo cũng cần thiết không kém. Nhạc sĩ Nguyễn Thị Minh Châu cho rằng tác phẩm hay luôn có giá trị đúng nhưng tác phẩm đúng chưa chắc đã hay. Chính vì thế, không thể vin vào một số cuốn sách, vở diễn, bộ phim bị đình bản, cấm phát hành mà cho đó là kìm hãm sáng tạo đỉnh cao. Nói như TS Lê Thành Nghị, trường hợp cuốn Thời của thánh thần (tác giả Hoàng Minh Tường, đã bị thu hồi) “phơi bày những tiêu cực của đời sống, phân tích cặn kẽ những mặt khuất lấp của hiện thực nhưng một lối thoát tinh thần cho sự ngột ngạt ấy còn chưa được dày công suy ngẫm, còn là khoảng cách với người đọc”. Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh)… sau này cũng là những trường hợp vấp phải sự đối nghịch về quan điểm trong dư luận.
Thế nào là tác phẩm đỉnh cao? Khái niệm “cao” và “đỉnh cao” đã được mang ra định nghĩa cụ thể tại hội thảo. Tổng hợp từ nhiều ý kiến của các văn nghệ sĩ, PGS-TS Nguyễn Hồng Vinh - Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, nghệ thuật trung ương - đúc kết: Tác phẩm có giá trị cao phải phản ánh, thể hiện những tư tưởng tiên tiến, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân và những vấn đề liên quan đến vận mệnh của đất nước; có tác động sâu sắc và tích cực đối với xã hội, nêu bật được những vấn đề bản chất nhất của đời sống hiện thực; có sức truyền cảm lay động, bồi dưỡng tình cảm lý tưởng sống cao đẹp cho con người; sáng tạo độc đáo về nghệ thuật, ngôn từ, góp phần nâng cao hệ giá trị thẩm mỹ của văn học nghệ thuật. Riêng tác phẩm “đỉnh cao” phải vượt qua cả 3 tiêu chí trên, là tác phẩm hay nhất, được công chúng ngưỡng mộ tán thưởng nhiều nhất, đặc biệt xuất sắc. |
Bình luận (0)