Chuyển nhầm gần 500 triệu đồng, người nhận "không hợp tác": Nhận định của luật sư

(NLĐO) - Luật sư lưu ý người nhận được khoản tiền hoặc tài sản không phải của mình cần phối hợp với cơ quan chức năng hoàn trả cho chủ sở hữu để tránh rắc rối

Liên quan vụ việc chuyển nhầm gần 500 triệu đồng nhưng người nhận được "không hợp tác", chiều 21-11, chị Nguyễn Thị Thu Th. (người chuyển nhầm tiền; ngụ khóm Tây Chín, xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị) cho biết vẫn chưa nhận lại được số tiền đã chuyển nhầm.

Trước đó, ngày 10-11, chị Th. thực hiện chuyển tiền giao dịch cá nhân bằng điện thoại. Trong lúc chuyển tiền, do lỗi mạng nên chị đã chuyển nhầm số tiền 499.999.999 đồng vào tài khoản mang tên NGUYEN THE LU.

Chuyển nhầm gần 500 triệu đồng, người nhận "không hợp tác": Nhận định của luật sư - Ảnh 1.

Ảnh minh hoạ

Sau khi biết chuyển tiền nhầm, chị Th. đã tiến hành sao kê, kiểm tra và xác định đã chuyển số tiền trên vào tài khoản của ông N.T.L (ngụ phường Quảng Trị). 

Dù nhiều lần tìm đến nhà đối chiếu sao kê, xin lại số tiền đã chuyển nhầm nhưng ông L. không hợp tác, còn chặn liên hệ nên chị Th. cầu cứu cơ quan chức năng, mong sớm can thiệp để lấy lại số tiền chuyển nhầm. Tiếp nhận đơn của chị Th., Công an phường Quảng Trị đã vào cuộc, điều tra theo đúng quy định.

Qua theo dõi các bài viết trên Báo Người Lao Động, luật sư Nguyễn Anh Tuấn, Giám đốc Công ty Luật ATG - Đoàn Luật sư TP Đà Nẵng, cho biết theo khoản 1, Điều 579, Bộ luật Dân sự 2015, nghĩa vụ hoàn trả được nêu như sau:

"Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của bộ luật này".

Theo điểm c, khoản 2, Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-NHNN, nghĩa vụ của chủ tài khoản thanh toán được quy định: Hoàn trả hoặc phối hợp với tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoàn trả các khoản tiền do sai sót, nhầm lẫn đã ghi "có" vào tài khoản thanh toán của mình.

Việc không trả lại số tiền bị chuyển nhầm sẽ bị coi là chiếm hữu tài sản của người khác không có căn cứ pháp luật. Khi sử dụng hoặc chiếm giữ tiền người khác chuyển khoản nhầm, cá nhân sử dụng có thể bị phạt hành chính theo điểm đ, khoản 2, Điều 15 Nghị định 144/2021, với mức phạt tiền từ 3 triệu đến 5 triệu đồng.

Trường hợp cố tình chiếm giữ số tiền từ 10 triệu đồng trở lên dù được yêu cầu nhận lại từ chủ sở hữu hoặc cơ quan có trách nhiệm với số tiền chuyển khoản nhầm theo đúng quy định của pháp luật, người nhận chuyển khoản nhầm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản (theo Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015, được bổ sung bởi điểm d khoản 1 Điều 2 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017); nếu chiếm giữ tài sản trị giá từ 200 triệu đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia thì bị phạt tù từ 1 đến 5 năm.

Theo luật sư Nguyễn Anh Tuấn, để đảm bảo việc lấy lại được tiền, khi chuyển nhầm thì người chuyển nhầm phải tiến hành các bước: liên lạc với ngân hàng báo việc mình chuyển nhầm tiền để được hỗ trợ tra soát thông tin phía người nhận nhằm xin lại.

Trường hợp người nhận nhầm không hợp tác thì người chuyển nhầm cần trình báo đến cơ quan chức năng nơi mình cư trú, nơi chuyển tiền hoặc nơi người nhận nhầm cư trú.

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, cơ quan công an sẽ tiến hành điều tra, làm rõ sự việc, thu hồi tài sản để trả lại người chuyển nhầm; hoặc chuyển đến VKSND truy tố ra TAND xét xử, buộc người chiếm giữ tiền trái pháp luật phải trả lại tiền cho bị hại.

Luật sư Nguyễn Anh Tuấn cho rằng người nhận được khoản tiền hoặc tài sản không phải của mình cần lưu ý phối hợp với các đơn vị liên quan để hoàn trả lại cho chủ sở hữu. Trường hợp không biết chủ sở hữu đó là ai thì có thể liên hệ với công an địa phương nơi mình sinh sống để trình báo, giao nộp khoản tiền, tài sản vô tình nhận được để tránh những rủi ro, rắc rối có thể phát sinh về việc chiếm hữu khoản tiền, tài sản trái pháp luật.