Giải pháp bền vững ứng phó biến đổi khí hậu
Nhiều địa phương đã và đang nỗ lực phục hồi, phát triển rừng ngập mặn
Điều này để hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh, giúp hấp thụ khí nhà kính,bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, rừng ngập mặn đang được nhìn nhận như "tấm khiên xanh" hiệu quả, giúp bảo vệ các vùng ven biển khi thiên tai, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí nhà kính, bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng.
Vành đai xanh của sự sống
Tại Việt Nam, nhiều địa phương đã và đang nỗ lực phục hồi, phát triển rừng ngập mặn, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.
Rừng ngập mặn là hệ sinh thái đặc thù, hình thành tại các vùng cửa sông, ven biển, nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của thủy triều. Với hệ thống rễ đan xen, rừng ngập mặn có khả năng làm chậm tốc độ sóng; giảm thiểu tác động của bão, triều cường, xói lở bờ biển và bảo vệ hành lang đê điều. Không chỉ là "bức tường chắn sóng", rừng ngập mặn còn là nơi cư trú, sinh sản của nhiều loài thủy sinh, chim di cư và động vật hoang dã, góp phần duy trì cân bằng sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Việt Nam hiện có khoảng 200.000 ha rừng ngập mặn, phân bố tại nhiều tỉnh, thành phố ven biển, trong đó khu vực Nam Bộ, Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ chiếm tới 97%. Tuy nhiên, rừng ngập mặn chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng diện tích rừng quốc gia, lại đang có xu hướng suy giảm do áp lực từ phát triển kinh tế, nuôi trồng thủy sản và biến đổi khí hậu.

Rừng ngập mặn tươi tốt trở thành “lá chắn xanh” tại vùng biển Thanh Hóa
Ngoài giá trị sinh thái, rừng ngập mặn còn là "bể chứa carbon" tự nhiên quan trọng. Theo kết quả nghiên cứu của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp với Cục Lâm nghiệp, trữ lượng carbon trung bình của rừng ngập mặn tại Việt Nam lên tới 245 tấn/ha. Đáng chú ý, 71% lượng carbon này nằm trong lớp đất dưới tán rừng, ở độ sâu khoảng 30 cm - một đặc điểm khiến rừng ngập mặn trở thành công cụ hữu hiệu trong chiến lược giảm phát thải khí nhà kính.
Việc đo đếm, tính toán và định lượng carbon trong rừng ngập mặn không chỉ là cơ sở khoa học cho công tác quản lý, mà còn giúp Việt Nam củng cố vị thế trong các cuộc đàm phán quốc tế về biến đổi khí hậu, mở ra cơ hội tiếp cận các nguồn tài chính khí hậu như REDD+ hay Quỹ Khí hậu xanh (GCF).
Hiệu quả rõ rệt
Nhận thức rõ vai trò của rừng ngập mặn, tháng 10-2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Bảo vệ và phát triển rừng vùng ven biển nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030". Mục tiêu của đề án là đến năm 2030, trồng mới 20.000 ha rừng ngập mặn và phục hồi, làm giàu 15.000 ha rừng hiện có.
Tại các địa phương, nhiều mô hình phục hồi rừng ngập mặn đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Tỉnh Quảng Ninh hiện có trên 19.000 ha rừng ngập mặn, trong đó rừng phòng hộ chiếm gần 16.000 ha; duy trì hơn 1.450 ha rừng ngập mặn tự nhiên với các loài như mắm, sú, trang, đước, vẹt. Chính quyền địa phương kiên quyết không giao đất bãi triều để đắp đầm nuôi thủy sản, nhằm bảo vệ nguyên vẹn diện tích rừng; tích cực tuyên truyền, vận động người dân không xâm hại rừng, đồng thời khuyến khích phát triển du lịch sinh thái gắn với rừng ngập mặn.
Tại Nghệ An, dọc sông Bùng, những cánh rừng ngập mặn cao tới 6 m đã trở thành "thành lũy" vững chắc bảo vệ đê điều, hoa màu và nhà cửa của hàng ngàn hộ dân.
Trong khi đó, Cà Mau - tỉnh có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước với gần 50.500 ha - đã ban hành Đề án "Bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ven biển đến năm 2030". Rừng ngập mặn ở Cà Mau không chỉ là lá chắn chống xói lở mà còn mang lại giá trị kinh tế hơn 1.700 tỉ đồng/năm, góp phần tạo việc làm, thu nhập và ổn định đời sống cho nhiều người dân ven biển.
Dựa vào cộng đồng
Thực tiễn đã chứng minh vai trò "cứu sinh" của rừng ngập mặn.
Sau cơn bão Damrey năm 2005, các cuộc khảo sát tại Thanh Hóa cho thấy những đoạn đê có rừng ngập mặn che chắn vẫn đứng vững, trong khi các đoạn đê bê-tông không có rừng bị phá hủy nghiêm trọng. Thiệt hại về người, tài sản và sản xuất tại xã Đa Lộc (nay thuộc xã Vạn Lộc) là lời cảnh tỉnh rõ ràng về sự cần thiết của vành đai xanh ven biển.
Từ năm 2007, dự án trồng rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng, do tổ chức CARE triển khai tại Đa Lộc, đã trồng 250 ha rừng với tỉ lệ sống lên tới 80%-85% - vượt xa kỳ vọng ban đầu. Thành công này đến từ việc huy động người dân tham gia từ khâu lập kế hoạch, chọn giống đến trồng và chăm sóc cây. Người dân hiểu rằng họ trồng rừng cho chính mình nên sẵn sàng làm việc không quản nắng mưa.

Người dân Đa Lộc (nay thuộc xã Vạn Lộc), tỉnh Thanh Hóa tham gia dự án trồng rừng ngập mặn. Ảnh: HÙNG VÕ
Dự án trên cũng thành lập hệ thống quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBMMS). Trong đó, người dân có quyền sử dụng đất, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm bảo vệ rừng. Mô hình này đã được nhân rộng ra nhiều xã ven biển khác tại Thanh Hóa, trở thành điển hình về cách tiếp cận hiệu quả, bền vững.
Rừng ngập mặn không chỉ là tài sản sinh thái mà còn được xem như "bảo hiểm thiên tai" tự nhiên quý giá. Mỗi hecta rừng được trồng, mỗi cây con được chăm sóc là một bước tiến vững chắc trong hành trình ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ sinh kế và tương lai cho các thế hệ mai sau.
Cần nhiều giải pháp đồng bộ
Để đạt được mục tiêu phát triển rừng ngập mặn bền vững, cần tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp đồng bộ. Cụ thể, cần nâng cao nhận thức cộng đồng, đào tạo kỹ thuật, đầu tư cho việc bảo vệ và giám sát rừng, ứng dụng khoa học - công nghệ trong quy hoạch và theo dõi diễn biến rừng.
Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế tài chính ổn định cho các chương trình trồng rừng, nhất là huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và các quỹ khí hậu.