Mang hạnh phúc đến những gia đình hiếm muộn
Ngày 30-4-1998, Bệnh viện (BV) Phụ sản Từ Dũ TPHCM đã đón 3 em bé đầu tiên tại Việt Nam chào đời từ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON), đánh dấu thành công của công trình nghiên cứu “Áp dụng TTTON và các kỹ thuật liên quan để điều trị hiếm muộn”. Đến nay, đã có 1.741 em bé chào đời từ TTTON và hiện đang có 200 phụ nữ mang thai với những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Nhắc đến những thành công to lớn của công trình TTTON, ngoài vai trò là con chim đầu đàn của bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, không ai không biết đến bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan.Ước mơ được làm mẹ đã thành hiện thực
Ban đầu, Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ chỉ áp dụng phương pháp TTTON cổ điển, nhưng chỉ sau đó 7 năm, tất cả những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên thế giới đã có mặt tại đây. Tuy nhiên, dù với phương pháp hỗ trợ tiến bộ nào, và dù đã thực hiện cho hàng ngàn trường hợp, bác sĩ Ngọc Lan vẫn không giấu được sự hồi hộp, lo lắng mỗi khi bắt đầu một ca mới. “Chu trình từ khi các bác sĩ kích thích buồng trứng của bệnh nhân cho đến khi thành phôi và thụ tinh phải qua rất nhiều lần xét nghiệm, kiểm tra... Có khi một trường hợp phải làm đi làm lại nhiều lần, đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn của thầy thuốc và sự hợp tác hết lòng của bệnh nhân” - bác sĩ Ngọc Lan kể. Không ít lần chị cùng những bác sĩ trẻ trong khoa đã làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ đêm mà không ăn trưa vì công việc cấy phôi không thể gián đoạn. Trong khi đó, phòng cấy phôi luôn khô và nóng ở 37 độ C với nồng độ khí CO2 là 5% (trong không khí bình thường chỉ có 0,3% CO2). Vì phải thở với nồng độ khí ôxy thấp hơn bình thường, bác sĩ Ngọc Lan nói rằng mình luôn ở trong tình trạng ngạt mãn tính.
Nếu bác sĩ trong nước không làm được thì...
Sinh năm 1971, khi tốt nghiệp chuyên ngành sản phụ khoa, bác sĩ Ngọc Lan được lựa chọn đào tạo về TTTON tại BV Từ Dũ. Ngoài thời gian học tập ở nước ngoài, chị còn “tự đào tạo” bằng việc tìm tòi tài liệu và những sách chuyên ngành. Bác sĩ Ngọc Lan cho biết ngay từ nhỏ chị thường theo mẹ (bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng) trực trong BV nên công việc của mẹ chị đã làm cho chị say mê. Để ứng dụng tất cả các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong thời gian nhanh nhất và để đạt mức thực hiện 1.500 ca/năm, chị và các đồng nghiệp đã nỗ lực hết mình, làm việc đến quên cả ngày nghỉ cuối tuần. Niềm tin của ban lãnh đạo BV, nỗi khổ của những cặp vợ chồng hiếm muộn đã thôi thúc chị không ngừng.
Bác sĩ Ngọc Lan nói: “Nhu cầu được điều trị hiếm muộn tại Việt Nam là rất lớn, khoảng 150.000 cặp vợ chồng/năm. Nếu bác sĩ trong nước không thực hiện được thì có bao nhiêu người đủ điều kiện đi nước ngoài điều trị?”. Việc thực hiện thành công TTTON tại Việt Nam không những có ý nghĩa mang lại niềm vui cho những cặp vợ chồng hiếm muộn mà còn có ý nghĩa về mặt kinh tế. Giá thành kỹ thuật chỉ bằng 1/4 so với Singapore và gần 1/10 so với Mỹ. Thật vậy, những kỹ thuật điều trị có chi phí thấp đã đưa những cặp vợ chồng hiếm muộn với thu nhập hạn chế đến gần hơn với ước mơ được sinh con.