Có một Đàn Âm hồn ở cố đô Huế
Đàn Âm hồn đã vượt ra ngoài phạm vi công trình nhà nước (quân chủ) duy nhất trên cả nước đánh dấu ngày kinh đô thất thủ để trở thành đài liệt sĩ đầu tiên biểu trưng cho chủ nghĩa yêu nước - chống giặc ngoại xâm của nước Việt
TS Cù Huy Hà Vũ nhận định như vậy và kiến nghị công nhận Đàn Âm hồn là di tích quốc gia đặc biệt. Đây là vấn đề rất nghiêm túc và quan trọng liên quan đến một giai đoạn lịch sử bi tráng của dân tộc, mặt khác Huế từ lâu đã là di sản văn hóa, vì vậy nếu có thêm những điểm di tích mới có giá trị lịch sử thì lại càng tôn vinh thêm giá trị của Huế. Hiện Đàn Âm hồn chỉ còn là phế tích tại 24 Ông Ích Khiêm, thuộc phường Thuận Hòa, TP Huế.
Kinh đô thất thủ
Đàn Âm hồn là một trong ba công trình phục vụ tế lễ do nhà Nguyễn lập ra: Đàn Nam giao để tế trời, Đàn Xã tắc để tế đất và Đàn Âm hồn để tế vong hồn những người hy sinh vì nước trong ngày kinh thành thất thủ. Đàn Âm hồn nằm trên khu đất rộng khoảng 1.400 m2, sát Cửa Nhà Đồ (cửa chính Nam), chỉ cách Cung Diên Thọ, Hiển Lâm Các có 100 m..
Đàn được xây dựng tại địa điểm diễn ra trận tập kích với quy mô lớn, do Tôn Thất Thuyết và em trai ông trực tiếp chỉ huy đánh vào đồn Mang Cá nhằm tiêu diệt đội quân hùng hậu của Pháp mới tăng cường từ miền Bắc, giành thế chủ động và tiến tới xóa bỏ sự có mặt của người Pháp tại Việt Nam lúc đó. Trận chiến diễn ra vào đêm 4 rạng ngày 5-7-1885 (ngày 23-5 Ất Dậu).
Nhà báo, nhà sử học chuyên nghiên cứu về Đông Dương Philippe De Villers trong một công trình nghiên cứu cách đây hơn 50 năm có tên là: “Người Pháp và người Annam là bạn hay thù?” - NXB Denoel xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1998 - cho biết, tại Việt Nam lúc đó, quân viễn chinh Pháp được đưa lên thành ba sư đoàn, dưới sự chỉ huy của trung tướng Roussel de Courcy.
Ông Tôn Thất Thuyết tin chắc rằng lần này người Pháp cũng lại sẽ cố gắng chiếm lấy kinh đô, như họ đã từng làm ở Hà Nội vào các năm 1873 và 1882, nên chủ trương một thái độ cương quyết và sẽ tuyệt đối chống lại. Tôn Thất Thuyết biết không thể thắng được quân Pháp trong một trận đánh chính quy.
Nhưng vì tin chắc người Pháp sắp phát động một đòn vũ lực để ngăn cản ông và chiếm lấy Huế, ông quyết định phải hành động trước. Ông hy vọng đạt được một kết quả quyết định bằng một đòn mạnh và đột ngột để loại trừ được đại bộ phận sĩ quan Pháp và thậm chí có thể cả tướng Courcy và bộ tham mưu của ông ta nữa.
Như vậy sẽ đề phòng được mọi hành động sau này của quân Pháp ở Huế, làm cho đông đảo quần chúng nổi dậy và buộc Paris phải quyết định rút lui khỏi Annam. Để đạt được mục tiêu này, ông đã tập trung khoảng 12.000 quân. Ông cũng đã huy động tới khoảng 1.200 khẩu đại bác (chính xác hơn là những khẩu thần công lạc hậu, tầm bắn cũng như sát thương thấp).
Cuộc tấn công của quân đội triều đình Huế đã nổ ra. Với uy lực của hỏa lực mạnh, hiện đại, quân Pháp đã nhanh chóng chiếm lại ưu thế. 11 giờ ngày 5-7-1885, Courcy điện về chính phủ Pháp: “Ngôi thành đã ở trong tay chúng ta cùng với 1.100 khẩu đại bác. Quân đội chúng ta tuyệt vời. Thương vong không đáng kể”. Về phía quân Pháp có 11 người chết và 62 người bị thương, trong khi đằng trước mặt họ là từ 1.200 đến 1.500 xác người Annam phải chôn cất hay đem thiêu.
Tướng Prudhomme báo cáo: “Xác của 1.500 người Annam cho thấy những thiệt hại của kẻ thù ít nhất cũng phải gấp đôi thế, vì theo tập quán họ đã mang đi rất nhiều, và mang tất cả những người bị thương đi, vì họ sợ chúng ta sẽ cắt xẻo hay đối xử tàn nhẫn... Do không thể chôn cất hết những người Annam chết, người ta đã vứt một phần vào các kênh đào, và phần còn lại thì đem hỏa thiêu. Nhưng sự thối rữa của một số lượng lớn xác chết như vậy, lại do thời tiết nóng làm cho thối rữa mạnh hơn, đã làm ô nhiễm cả thành phố, và trong một thời gian dài nữa, người ta đã phải hít thở một thứ không khí sặc mùi hôi thối”.
Đàn âm hồn
Sau thất bại này, Tôn Thất Thuyết đã đưa cả triều đình ra khỏi kinh thành Huế và bắt đầu phong trào Cần Vương như mọi người đã biết. Vấn đề là ở chỗ, tại nơi xảy ra trận chiến, toàn bộ số binh sĩ tử trận một phần bị vứt xuống sông, một phần bị thiêu làm cho cả kinh thành sống trong mùi xú uế hàng tháng trời.
Sau đó, dân cư sống gần khu vực này không được yên ổn, liên tục xảy ra hỏa hoạn, bất an. Vì vậy vào năm 1895, triều đình bù nhìn Huế phải cho lập đàn thờ cúng (có cử người trông giữ) các binh sĩ tử trận tại khu vực đó.
Tài liệu xưa nhất cho đến lúc này về Đàn Âm hồn do TS Cù Huy Hà Vũ lưu giữ được là trong bài Lễ hội ở Huế (Les Fêtes à Hue) của R.ORBAND đăng trong Bulletin des amis du Vieux Hue (BAVH- Tập san Đô thành Hiếu cổ) số 2-1916: “Ở kinh thành vào ngày 24-5, có một buổi lễ đơn giản nhưng rất cảm động: đó là lễ tưởng niệm những âm hồn (âmes abandonnées). Người dân ở đây kể lại rằng, sau những trận đánh diễn ra ở Huế vào năm 1885, ngày 5-7 (23-5 âm lịch), những hồn người chết trở thành những bóng ma gây nên những đám cháy bởi vì họ không được ai thờ cúng. Vậy nên vào năm 1894, Bộ Lễ đã cho lập một cái đàn nhỏ gần cửa Quảng Đức, hàng năm cứ vào ngày giỗ, người ta lập những bàn thờ bày đồ cúng tế những vong hồn của những nạn nhân chiến tranh. Quan Đề đốc hộ thành làm chủ tế. Trong buổi tưởng niệm, người ta có đọc một bài tế ngắn”. Còn theo dân gian thì lễ tế được tổ chức rất trọng thể, bao giờ đồ tế cũng gồm một trâu cậu (trâu lớn) và 9 con bò, chưa kể heo, gà và hoa quả. Sau lễ tế của triều đình thì dân chúng vào cúng bái. Như vậy, Đàn Âm hồn gắn liền với sự kiện kinh đô thất thủ và do nhà nước (quân chủ) lập ra. Còn tại sao theo tài liệu này thì Đàn Âm hồn ở gần Cửa Quảng Đức, trong khi trên thực tế lại gần Cửa Nhà Đồ là vì ngày xưa người ta lấy Hoàng thành làm trung tâm, mọi công trình chung quanh được nhìn từ cửa gần Hoàng thành nhất mà ở đây là Cửa Quảng Đức.
Tài liệu gốc thứ hai là Bản đồ Kinh thành Huế cũng in trong BAVH, số 1-2 1933. Trong bản đồ này, Đàn Âm hồn là di tích cổ số 270 với chú thích của cha đạo Léopold Cardière: “Nền đất đắp thờ âm hồn (tertre des Âmes abandonnées), Âm hồn đàn thuộc phường Huệ An, nơi xưa kia có các trại lính thần cơ - pháo binh”. Điều đáng chú ý là theo Bản đồ Kinh thành Huế do cha đạo Léopold Cardière lập thì ngoài Đàn Âm hồn ở phường Huệ An, còn có tới 5 Đàn Âm hồn khác (làng Phú Xuân, phường Tri Vụ, phường Phú Nhơn, phường Vĩnh An, phường Thuận Cát). Thực ra, chỉ có Đàn Âm hồn do triều đình lập ở phường Huệ An mới đúng nghĩa là đàn vì có kiến trúc lộ thiên trên diện tích rộng gần 1.500 m2 (tương tự như các Đàn Nam giao, Xã tắc). Điều này giải thích tại sao R.ORBAND chỉ nhắc tới một Đàn Âm hồn do Bộ Lễ lập ra.
Đàn này lúc đầu được đắp bằng đất, sau được xây cất tử tế, trở thành ngôi đền trong đó có đặt bài vị ghi danh các chiến sĩ đã hy sinh trong ngày kinh đô thất thủ (bài vị này tồn tại cho đến khi xảy ra các trận đánh vào Mậu Thân 1968). Sau này, triều đình cho làm thêm một ngôi nhà ba gian để giữ đồ cúng gọi là tự khí và các tài liệu liên quan, đồng thời cắt một đội quân nhỏ để coi sóc chung cho cả đàn. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, ngôi nhà ba gian bị phá hủy (có thể do chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”) nhưng ngôi đền thì còn nguyên cho đến năm 1987. Từ đó ngày 23-5 âm lịch hằng năm là ngày giỗ chung, không chỉ tại nơi đó mà trong một diện rộng tại Huế, nhân dân đều tổ chức rất long trọng việc cúng tế cho các chiến sĩ trận vong cho đến tận cuối tháng 5.
Thiết nghĩ, cũng cần lưu ý tại sao 10 năm sự kiện bi thảm ấy, Đàn Âm hồn mới được xây dựng? Sự bí ẩn này cũng mang những ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. TS Cù Huy Hà Vũ đã lập luận rất chính xác: Sau khi vua Hàm Nghi lên núi kháng chiến thì Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi. Như vậy, dưới triều của ông vua này (Đồng Khánh chết vào đầu năm 1889), nhất là khi Nguyễn Hữu Độ, viên quan “đại Việt gian” quyền thế nhất triều vẫn còn sống (chết năm 1888), thì không thể có chuyện có một công trình gì đó, chứ chưa nói tới cấp Nhà nước, khả dĩ khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần chống Pháp được dựng lên. Vì vậy, Đàn Âm hồn chỉ có thể được lập ra dưới triều Thành Thái, vị vua yêu nước, có tư tưởng chống Pháp rõ rệt.
Điều chúng tôi rất băn khoăn là, tại sao một sự kiện lịch sử có tầm vóc như vậy, cho đến tận ngày hôm nay, không hề được giới sử học và các nhà nghiên cứu về cố đô Huế đề cập đến (?). Điều đáng buồn, dù tầm vóc và ý nghĩa lớn lao như vậy, nhưng Đàn Âm hồn đến nay vẫn không được công nhận là di tích lịch sử, văn hóa nằm trong quần thể di tích cố đô Huế. Nơi đây - một phế tích thì đang bị xẻ ra làm đất ở. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, một phần diện tích khu vực đàn bị dùng làm xưởng mộc. Gần đây, một số hộ cá nhân ở trong khu vực này còn được cấp sổ đỏ.