Dấu vết biết nói
Hầu hết các dấu vết để lại trên hiện trường đều mơ hồ và mỏng manh. Mỏng manh như sương khói, nhưng qua bàn tay và khối óc của những nhà kỹ thuật hình sự, dấu vết không còn câm lặng mà đã trở nên biết nói; “nói” một cách rõ ràng, tạo thành chứng cứ vật chất có giá trị giúp cho việc kết luận bản chất vụ việc
Những bạn đọc ở lứa tuổi 50, từng sống ở miền Bắc trước đây, chắc hẳn chưa quên vụ mất cắp ấn vàng của vua triều Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử (Hà Nội) xảy ra vào cuối tháng 6-1961; vụ án đã từng gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài.
Chiếc ấn vàng nặng 4,9 kg
Đây là chiếc ấn nguyên bản, có trọng lượng 4,9 kg vàng ròng, được bày và bảo vệ trong tủ kính của bảo tàng (số 25 phố Tông Đản, Hà Nội). Thời gian mất không xác định được chính xác; nó chỉ được biết đến khi phát hiện thiếu hiện vật ở tủ trưng bày. Cùng với chiếc ấn, còn có một âu vàng nặng 0,5 kg. Khám nghiệm hiện trường chỉ thu được 2 mẫu đồng nằm trong ổ khóa tủ trưng bày.
Mặc dù đã thực hiện nhiều phương án, công tác điều tra vẫn hoàn toàn bế tắc. Ngày 5-1-1962, trong khi vẫn chưa phát hiện được kẻ lấy cắp ấn vàng, âu vàng thì Bảo tàng Lịch sử lại mất tiếp 2 quyển sách mạ vàng. Qua khám nghiệm hiện trường, thu được dấu vết vân tay 3 ngón giữa (của một bàn tay) và một bức thư do thủ phạm dùng để đi đại tiện ở phía vườn cây sau bảo tàng. Ngoài ra còn thu được một hạt ô mai, một mẩu chìa khóa gẫy trong ổ khóa tủ trưng bày 2 quyển sách mạ vàng. Từ nghiên cứu bức thư cho thấy đây là thư viết cho một người có các con là Trung, Thanh, Phong. Phải xác minh để tìm ra bố của 3 người con kia là ai. Song những cái tên này lại không có trong tàng thư căn cước Công an Hà Nội và Trung tâm Căn cước (Bộ Công an). Một thông báo đã được chuyển đến tất cả các tỉnh miền Bắc để truy tìm người có 3 con có tên như trong bức thư. Cuối cùng, thông qua tài liệu dân số, Công an tỉnh Nam Hà đã cho biết về một tên lưu manh chuyên nghiệp tên Nguyễn Văn Chưởng có 3 con đúng như thông báo. Kết hợp với nhiều biện pháp nghiệp vụ điều tra, sau đó đã biết được tên Chưởng đúng là kẻ vứt lại bức thư trong vườn cây sau viện bảo tàng và hiện tên Chưởng đã bị bắt giam ở Hỏa Lò (từ một vụ án khác).
Kết quả của việc lấy vân tay tên Chưởng (so với vân tay thu được ở hiện trường), cán bộ căn cước đã khẳng định tên Chưởng đúng là kẻ đã để lại dấu vết vân tay ở Viện Bảo tàng Lịch sử trong vụ mất 2 quyển sách mạ vàng. Tiếp tục đấu tranh, khai thác, cuối cùng tên Chưởng phải thú nhận chính y (và một đồng bọn) đã lấy trộm ấn vàng, âu vàng hồi tháng 6-1961. Khi đó, lợi dụng lúc bảo tàng vắng người, tên Chưởng đã dùng khóa giả mở tủ trưng bày lấy ấn vàng nhét vào bụng, đồng thời đưa chiếc âu vàng cho đồng bọn (Trương Bạt). Do tên Chưởng mang ấn nặng, chúng lập mưu ra khỏi cửa bằng cách: Tên Bạt giả vờ nói chuyện với bảo vệ để đánh lạc hướng sự chú ý, tạo điều kiện cho tên Chưởng ôm ấn ra trước. Sau khi phá ấn vàng, âu vàng, tiêu xài, năm 1962, tên Chưởng quen mùi, lại vào bảo tàng trốn, đợi đến đêm dùng khóa giả mở tủ lấy trộm 2 quyển sách mạ vàng. Chưởng là một tên lì lợm. Đêm đó, trong lúc chờ thời cơ để gây án, hắn đã đại tiện... một bãi phía sau vườn, rồi vứt lại lá thư sau khi đã dùng “xong việc”. Tên Chưởng không ngờ rằng, chỉ với lá thư có nội dung bình thường như hàng triệu lá thư khác, “bàn tay” của các giám định viên khoa học hình sự cùng cán bộ điều tra đã kết thúc được vụ án.
Phá một vụ tiêu thụ tem phiếu giả khổng lồ
Ai đã một thời sống trong những năm chống Mỹ ở miền Bắc hẳn đều biết phương thức lưu thông phân phối qua chế độ tem phiếu. Phương thức này đã thiết lập một hệ thống chính sách, chế độ tầm cỡ quốc gia xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác. Dù ngày nay, một số người có thể hiểu sai lệch, thậm chí coi đó như một “quá khứ buồn”; song chế độ phân phối này ngày đó là một trong những yếu tố mang tính pháp lý, bảo đảm sự công bằng xã hội, trật tự an ninh trong sản xuất, tiêu thụ của cải vật chất của toàn xã hội; góp phần phát triển sức người, sức của, đáp ứng nhu cầu về vật chất, tinh thần cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho tiền tuyến, chiến trường miền Nam.
Để chống sự mất cân đối giữa cung và cầu, Nhà nước đã cho in và lưu hành nhiều loại tem phiếu nhằm bảo đảm chế độ định lượng một số các mặt hàng thiết yếu cho cán bộ và nhân dân ta. Các loại tem phiếu lương thực, thực phẩm, phiếu vải, phiếu đường... lúc này có giá trị cao hơn cả đồng tiền; đặc biệt khi qua tay các “phe phẩy” (người buôn bán tem phiếu) giá trị này còn cao gấp bội. Lợi dụng đặc điểm này, bọn tội phạm đã in giả nhiều loại tem phiếu tung ra tiêu thụ làm ảnh hưởng đến lưu thông phân phối, tác động xấu đến việc chi viện cho chiến trường và ảnh hưởng đến cuộc sống của cán bộ, nhân dân vốn đã nhiều khó khăn do chiến tranh gây nên. Ấy vậy mà chỉ trong 3 tháng cuối năm 1969, đầu năm 1970, hai tên Nguyễn Văn Thoản (huyện Vũ Thư, Thái Bình) và Nguyễn Văn Phúc (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) đã in và tiêu thụ một lượng tem phiếu quy ra lương thực và thực phẩm hơn cả số lương thực, thực phẩm của cả nước sản xuất trong 1 năm. Trước mức độ vi phạm pháp luật nghiêm trọng này, Bộ Công an đã lập chuyên án, gấp rút tổ chức điều tra. Từ những tem phiếu lương thực, thực phẩm giả do trinh sát cung cấp, bộ phận giám định tài liệu văn bản, chữ viết của khoa học hình sự đã xác định được phương pháp in, chất giấy in, mực in; cung cấp những chứng cứ cần thiết để Bộ Công an chỉ đạo các địa phương điều tra bắt bọn tội phạm in và tiêu thụ tem phiếu giả.