Ký ức Hoàng Sa
Trong Toàn tập Thiên Nam Tứ chí lộ đồ của Đỗ Bá (năm Chính Hòa thứ 7-1686, đời Lê Trung Hưng) có lời chú: “Bãi cát vàng phỏng dài 400 dặm, rộng 200 dặm, ở giữa biển khoảng từ cửa Đại Chiêm kéo đến cửa biển Quyết Mông (cửa Sa Kỳ)... Hằng năm Chúa Nguyễn vào cuối đông đưa 18 chiếc thuyền đến đó nhặt vàng bạc...”
Bãi cát vàng đó là Hoàng Sa ngày nay... Gần 400 năm sau vào tháng 1-1997, Hoàng Sa trở thành đơn vị hành chính của TP Đà Nẵng. Huyện đảo Hoàng Sa có diện tích 305 km2, chiếm 24,29% diện tích TP Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng, những cư dân từng sống và làm việc ở Hoàng Sa một số người còn sống đến nay. Người nhiều, người ít họ đã để lại quãng đời thanh xuân đẹp nhất của mình ở đảo Hoàng Sa yêu dấu của Tổ quốc. Thỉnh thoảng họ vẫn gặp nhau ôn lại kỷ niệm đẹp ngày xưa.
Thiên đường Hoàng Sa
Hồi ấy, ông Võ Như Dân là nhân viên phục vụ Trạm Quan trắc đảo Hoàng Sa, thuộc Đài Khí tượng Sài Gòn trước năm 1975. Trạm quan trắc này được Pháp xây dựng từ năm 1932 mang số hiệu 48860. Nhóm 48 chỉ vùng Đông Nam Á; số 860 dùng cho trạm Hoàng sa. Trạm chính thức hoạt động vào năm 1938 đến năm 1974.
Ông Dân nhớ lại, cách nay hơn 54 năm, khi đứa con đầu lòng mới tròn 1 tuổi, ông Dân từ biệt gia đình ra đảo công tác. Trạm quan trắc trên đảo có 5 nhân viên, gồm 3 quan trắc viên, 1 vô tuyến điện và 1 phục vụ. Mỗi nhiệm kỳ công tác 3 tháng, nhưng tổ phục vụ ngày ấy chỉ có 3 người xoay vòng, nên có năm, ông Võ Như Dân ra đảo 2 lần. Ông Dân còn nhớ, mỗi chuyến tàu từ đất liền ra đảo chở cả tấn lương thực. Ông nghĩ kế dùng con vích (rùa biển) để kéo hàng từ tàu vào đài quan trắc. Mùa mưa bão của Hoàng Sa rất khắc nghiệt. Hoàng Sa chỉ có một bãi thông cao, chủ yếu là cây nhào thấp lúp xúp nên không thể ngăn gió bão. Nhiều tháng trời, phải đối diện với tình trạng thiếu lương thực khi tàu tiếp viện không đến kịp, không thể ra ngoài câu cá, ông Dân phải cùng đồng nghiệp bắt những con chim trú bão bay lạc vào trạm quan trắc để làm thịt.
Còn trong ký ức ông Nguyễn Tấn Phát, cựu nhân viên quan trắc trạm Hoàng Sa, thì Hoàng Sa là thiên đường. Ông Phát ra đảo Hoàng Sa lần đầu tiên khi mới 25 tuổi, ông xin ở lại luôn hai nhiệm kỳ, 6 tháng tròn. Ba quan trắc viên, mỗi người được phân công trực một ngày, nghỉ 2 ngày. Nhiệm vụ của quan trắc viên hằng ngày, đều đặn 8 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ, đọc khí áp mặt đất, hướng gió, lớp mây, sau đó chuyển cho nhân viên vô tuyến điện thảo mã điện gửi về đất liền.
Ngày ấy, Hoàng Sa có vị trí quan trọng trong công tác dự báo thời tiết, số liệu trên đảo gửi về thường rất chính xác trong công tác dự báo bão. Những ngày nghỉ, ông Phát lội khắp đảo. Đảo Hoàng Sa nằm trong nhóm Trăng Khuyết thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đảo hình bầu dục, dài khoảng 950 m, rộng khoảng 650 m. Chỉ mất khoảng 45 phút là đã đi hết đảo. Đây là đảo chính của quần đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Trên đảo có nhà của một trung đội địa phương quân. Ngọn hải đăng nằm ở phía Bắc đảo, chỉ dẫn cho tàu thuyền đi ngang qua vùng biển Hoàng Sa. Góc Tây Nam của đảo có miếu Bà, trong miếu có tượng Bà cao 1,5 m. Bia chủ quyền Việt Nam do nhà Nguyễn đặt vào năm 1816 nằm gần giữa đảo. Trên đảo còn có một nhà thờ Thiên Chúa... Ông Phát mô tả, chiều xuống đảo Hoàng Sa cực đẹp, nó như một miếng bánh mật, nước biển màu xanh ngọc chia thành từng lớp bao quanh đảo, vành đai ngoài màu xanh dương nhạt, xanh dương đậm dần ra phía khơi xa. San hô, ốc tai tượng, ốc gân là những đặc sản làm quà mỗi lần ông về đất liền...
Ký ức tiền nhân
Theo ông Tấn Phát, niềm say mê đảo Hoàng sa đã giúp ông có dịp tìm hiểu về lịch sử vùng đảo này. Ông cũng tự hào đã theo bước cha ông từ hàng trăm năm trước đến với vùng đảo xa xôi này. Hiện ở Hoàng Sa có nhiều hòn đảo được đặt tên các vị tiền nhân đã tới Hoàng Sa để bảo vệ bờ cõi Tổ quốc.
![]() |
Thuyền và hình nhân thế mạng tại lễ tế lính Hoàng Sa, được người dân Lý Sơn tổ chức hằng năm vào tháng 2 âm lịch |
Cách đảo Hoàng Sa về phía Nam chừng 3 hải lý có đảo Hữu Nhật. Đó là tên một suất đội thủy quân triều Nguyễn, ông Phạm Hữu Nhật. Ông Nhật là người Lý Sơn, Quảng Ngãi được vua Minh Mạng phái ra quần đảo Hoàng Sa để đo đạc thủy triều và vẽ bản đồ các đảo vào năm 1836. Xa hơn một chút có đảo Quang Ảnh, đảo mang tên ông Phạm Quang Ảnh, đồng hương với ông Phạm Hữu Nhật. Ông Quang Ảnh là đội trưởng đội Hoàng Sa thời vua Gia Long. Năm 1815, ông Ảnh theo lệnh vua dẫn một hải đội gồm 70 người quê Lý Sơn ra Hoàng Sa để thu hồi hải vật.
Ở Lý Sơn, Quảng Ngãi hiện giờ vẫn còn nhiều di tích gắn liền với đội Hoàng Sa triều Nguyễn năm xưa. Đó là Âm linh tự - nơi có đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, cũng là nơi diễn ra lễ tế tự hằng năm lớn nhất đảo; miếu thờ và ngôi mộ của cai đội Hoàng Sa Phạm Quang Ảnh được vua ban sắc phong Thượng đẳng thần. Đặc biệt ở đây có khu mộ gió, nghĩa địa của những người lính Hoàng Sa đã bỏ mình trên biển. Những ngôi mộ chỉ có tên tuổi, không có hài cốt. Ở Lý Sơn còn lưu truyền câu ca: “Hoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi”. Tương truyền còn có hai câu đối ở đình Lý Vĩnh ghi nhận công trạng của đội Hoàng Sa: “Ân đức dựng xây miền đảo Lý/Nghĩa tình bồi dắp dải Hoàng Sa” .
Chuyện những người lính thú Hoàng Sa.- Trong một dịp ra Lý Sơn, tôi đã được nghe những người già tại đây kể về số phận những người đi lính thú Hoàng Sa. Hằng năm vào tháng 3, đội Hoàng Sa gồm 70 người, thường là dân An Vĩnh (Lý Vĩnh, một xã của Lý Sơn) nhận lệnh vua chuẩn bị lương thực dùng trong 6 tháng, cùng với 5 chiếc thuyền ra khơi. Họ đi khoảng 3 ngày 3 đêm thì đến đảo để vừa canh giữ đảo vừa đánh cá, khai thác vật báu. Đến tháng 8 thì về Phú Xuân dâng nộp báu vật cho triều đình. 70 định suất đi Hoàng Sa được chia đều cho các tộc họ, theo nguyên tắc luân phiên nhau, con trưởng ở nhà lo tế tự, con thứ phải đăng lính. Vì thế hầu như toàn bộ các tộc họ thuộc làng An Vĩnh đều có người là lính Hoàng Sa. Thuyền nan mỏng mảnh, biển Đông bao la dập dồn sóng dữ, người đi lính Hoàng Sa đều chuẩn bị hậu sự cho mình trước khi xuống thuyền với đôi chiếu, đòn tre, dây mây bó xác và chiếc thẻ bài bằng tre ghi họ tên, quê quán. Họ hy vọng mong manh rằng nếu chết giữa biển, nếu qua được miệng cá dữ, còn có chút gì làm tin gửi tới người thân từ nơi mù tăm xa thẳm. Và cũng để có chút niềm hy vọng cho người ra đi, người dân làng An Vĩnh có tục làm lễ khao - lễ thế lính Hoàng Sa với ý nghĩa khao tế và khao quân. Lễ tục còn truyền đến ngày nay.
Tháng 3 âm lịch, người lính xuống thuyền, ngày 20-2, dân làng làm một lễ lớn, vừa tế những người lính Hoàng Sa trong các tộc họ đã tử nạn vừa làm những hình nhân thế mạng để cầu xin sự an bình cho những người sắp bước xuống thuyền đi bảo vệ, giữ gìn giang san của Tổ quốc. Các hình nhân thế mạng không có đầu, trên đội nón gõ, áo kẹp nẹp. Tên tuổi, linh hồn những người lính được gửi vào các hình nhân, với mong muốn mọi sóng gió thử thách của khơi xa nhờ các hình nhân gánh đỡ cho những người sống... Song “Hoàng Sa đi có về không ...”. Khu mộ gió ở Lý Sơn các buổi chiều cứ mênh mông gió, gió từ đại dương ào ạt thổi về như linh hồn những người lính thú Hoàng Sa tìm về chốn cũ...
Theo thời gian, dòng chảy lịch sử cứ thăng trầm thiên biến, nhưng Hoàng Sa mãi còn đó, tươi mới trong ký ức những người đang sống, tươi mới trong ký ức từng dòng họ, gia đình đã dâng hiến những người con cho Hoàng Sa bao thế kỷ qua.
Hoàng Sa mãi mãi là đảo tiên của Tổ quốc, là máu xương của cha ông, gắn liền với ký ức lịch sử dân tộc Việt Nam!