Phục hồi, phát triển rừng phi lao ven biển

Một cây phi lao trồng xuống, một cánh rừng phòng hộ tươi tốt vươn lên sẽ góp phần tạo nên "bức tường xanh" vững chắc

Rừng phi lao ở nhiều địa phương vốn là "bức tường xanh" bảo vệ bờ biển, phòng hộ làng mạc. Việc những cánh rừng phi lao bị thu hẹp diện tích nhanh chóng thời gian qua không chỉ để lại khoảng trống sinh thái, mà còn làm gia tăng mức độ ảnh hưởng với người dân trước bão lũ, xâm nhập mặn và xói lở.

Hàng chục ngàn hecta "biến mất"

Rừng phi lao ven biển đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và chống lại tác động của thiên tai. Với hệ rễ chùm ăn sâu và lan rộng, thân cây dẻo dai, rừng phi lao tạo thành bức tường chắn sóng, chắn gió, giảm tốc độ gió bão và ngăn ngừa xói lở bờ biển.

Không chỉ giữ đất, giữ cát, rừng phi lao còn giúp cải tạo đất nghèo dinh dưỡng, giữ nước, điều hòa khí hậu và tạo điều kiện cho các loài thực vật bản địa phát triển. Rừng phi lao còn là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật, góp phần bảo vệ sự đa dạng sinh học.

Nhiều khu rừng phi lao còn mang giá trị cảnh quan, thu hút khách du lịch và tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương thông qua việc khai thác lâm sản hợp lý, phát triển du lịch sinh thái. Vì vậy, việc phục hồi, phát triển rừng phi lao ven biển đã trở thành một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều địa phương.

Phục hồi, phát triển rừng phi lao ven biển - Ảnh 1.

Một cánh rừng phi lao cổ thụ ở Hà Tĩnh. Ảnh: PHẠM TRƯỜNG

Trước đây, Việt Nam sở hữu nhiều cánh rừng phi lao ven biển trải dài từ Thanh Hóa đến cực Nam Trung Bộ. Những cánh rừng phi lao tự nhiên và rừng trồng đã tồn tại hàng chục năm, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất đai, làng mạc và đê điều trước thiên tai.

Tuy nhiên, đến nay, diện tích rừng phi lao ven biển đã suy giảm nghiêm trọng. Theo các khảo sát gần đây, hàng chục ngàn hecta rừng phi lao ven biển đã "biến mất", nhất là tại các tỉnh miền Trung.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc sụt giảm diện tích rừng phi lao, trong đó nổi bật là sự phát triển kinh tế - xã hội ở một vài địa phương còn bất cập, thiếu tính bền vững. Việc mở rộng đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, cảng biển, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng... đã trực tiếp làm thu hẹp diện tích rừng phi lao. Nhiều diện tích rừng phi lao còn bị chuyển đổi thành ao hồ nuôi tôm cá, phá vỡ hệ sinh thái rừng phòng hộ.

Bên cạnh đó, tình trạng khai thác phi lao làm củi, làm gỗ xây dựng vẫn diễn ra ở một số địa phương. Bão lũ, triều cường cũng khiến nhiều cánh rừng bị gãy đổ, cuốn trôi. Tình trạng biến đổi khí hậu với việc hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn, nước biển dâng cũng khiến phi lao khó sinh trưởng, thậm chí chết hàng loạt.

Đáng chú ý, không thể không nhắc đến những bất cập trong việc quản lý và quy hoạch rừng ở một vài địa phương. Nhiều nơi chưa có quy hoạch cụ thể hoặc quy hoạch chưa được thực hiện nghiêm túc. Việc trồng mới rừng phòng hộ còn mang tính hình thức, tỉ lệ cây sống thấp do thiếu chăm sóc và giám sát sau trồng. Ý thức bảo vệ rừng của một bộ phận người dân còn hạn chế, trong khi lực lượng bảo vệ lại mỏng, thiếu trang thiết bị giám sát...

Trách nhiệm chung của cộng đồng

Trong bối cảnh đó, việc phục hồi và phát triển rừng phi lao không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu về đa dạng sinh thái, mà còn để bảo đảm về môi trường, an toàn đời sống người dân và phát triển bền vững cho các vùng ven biển.

Nhiều chuyên gia môi trường cho rằng trước hết, cần rà soát và điều chỉnh quy hoạch rừng phòng hộ ven biển sao cho phù hợp. Những khu vực xung yếu, dễ bị xói lở, thường xuyên hứng chịu bão lũ cần được ưu tiên trồng rừng phi lao. Các hành vi lấn chiếm, phá rừng trái phép cần được xử lý nghiêm minh; đồng thời tăng cường giám sát bằng công nghệ để theo dõi diện tích và chất lượng rừng.

Việc phục hồi, phát triển rừng phi lao cần được thực hiện bài bản, được nghiên cứu kỹ lưỡng về thổ nhưỡng, khí hậu và lựa chọn giống cây phù hợp. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cần được cải tiến, áp dụng khoa học - công nghệ để tăng tỉ lệ sống và khả năng thích nghi của cây. Ngoài ra, cần khuyến khích trồng xen các loài cây bản địa để tăng tính đa dạng sinh học và khả năng chống chịu của hệ sinh thái.

Phục hồi, phát triển rừng phi lao ven biển - Ảnh 2.

Đoàn viên, thanh niên tham gia trồng phục hồi rừng phi lao ven biển tại Nghệ An. Ảnh: PHẠM ĐỨC

Điều quan trọng không kém là nâng cao nhận thức cộng đồng trong việc gìn giữ, bảo vệ rừng phòng hộ nói chung, rừng phi lao ven biển nói riêng. Người dân cần được tuyên truyền, phổ biến về vai trò của rừng phi lao ven biển; được tham gia quá trình trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.

Song song đó, địa phương cần triển khai các mô hình sinh kế bền vững gắn với rừng phi lao, như trồng cây dược liệu dưới tán rừng, phát triển du lịch sinh thái, cho phép khai thác lâm sản phụ… để tạo động lực cho người dân. Khi người dân thấy được lợi ích thiết thực, họ sẽ trở thành lực lượng bảo vệ rừng hiệu quả nhất.

Rừng phi lao ven biển mang biểu tượng về sức sống bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt. Phục hồi, phát triển rừng phi lao không phải là chuyện của một ngành, một địa phương, mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng. Ngay từ hôm nay, một cây phi lao trồng xuống, một cánh rừng phòng hộ tươi tốt vươn lên sẽ góp phần tạo nên "bức tường xanh" vững chắc cho các thế hệ mai sau. 

Để phục hồi, phát triển rừng phi lao ven biển hiệu quả, theo các nhà chuyên môn, cần có sự vào cuộc đồng bộ từ các cấp, ngành, địa phương.

Theo đó, nhà nước nên ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho địa phương, doanh nghiệp và người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng phi lao. Các chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển nông thôn mới, bảo vệ môi trường cần lồng ghép nội dung phục hồi rừng phòng hộ ven biển.

Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm và huy động nguồn lực cho các dự án phục hồi, phát triển rừng phi lao.