Bệnh tả - cần chiến lược phòng bệnh lâu dài
Tính từ tháng 10-2007 đến nay, đã có 3 đợt bệnh “tiêu chảy cấp” phát sinh ở quy mô cộng đồng. Nhưng sự bộc phát của bệnh lần mới nhất này có hai đặc điểm đáng chú ý: Số người nhiễm phẩy khuẩn tả, tức vi khuẩn V. Cholerea, rất cao (khoảng 70%-80%); bệnh có xu hướng lan truyền về phía Nam tình hình đó đặt ra vấn đề: Tìm một chiến lược lâu dài để phòng ngừa bệnh, đừng để nước ta thành một Bangladesh thứ hai
Bất cứ một chiến lược phòng bệnh nào cũng cần sự hợp tác của người dân, của cộng động. Sự hợp tác của cộng đồng chỉ có thể thành công nếu người dân ý thức được tầm quan trọng và các yếu tố nguy cơ của bệnh. Nhưng việc đầu tiên và có lẽ quan trọng nhất trong vấn đề ý thức là định danh bệnh chính xác. Hai đặc điểm thực tế vừa trình bày trên (tình trạng nhiễm khuẩn tả và sự lây lan của bệnh) cho thấy bệnh “tiêu chảy cấp” thật sự là bệnh tả.
Tại sao cần định danh bệnh?
Cố nhiên, không phải bất cứ ai mắc bệnh tiêu chảy cấp đều dẫn đến bệnh tả, nhưng theo quy ước y khoa và của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), dù chỉ có một trường hợp bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả V. Cholerae, bệnh có thể gọi là “cholera”, tức bệnh dịch tả hay bệnh tả. Sở dĩ WHO đề nghị quy ước này là vì nhiều người mắc bệnh tiêu chảy bị nhiễm vi khuẩn tả nhưng không nặng đến nỗi phải nhập viện và bệnh tả là một bệnh truyền nhiễm cấp tính có khả năng lan truyền nhanh; cho nên định danh sớm như thế cũng là một biện pháp truyền thông để nâng cao sự hợp tác của người dân trong việc phòng ngừa bệnh ở thời điểm sớm nhất.
Chúng ta cần phải nói cho người dân biết rằng vấn đề y tế mà xã hội đang quan tâm hiện nay chính là bệnh tả, một bệnh nguy hiểm và tốn kém.
Nguy hiểm là vì bệnh có thể dẫn đến biến chứng khác, thậm chí tử vong nếu không điều trị kịp thời. Trên thế giới, hằng năm có hàng trăm ngàn người chết vì bệnh tả do không phát hiện kịp thời và thiếu phương tiện phòng chống. Ở nước ta trong mấy năm gần đây tuy chưa có trường hợp nào tử vong vì bệnh tả, nhưng số ca bệnh tả vẫn xảy ra hằng năm và có khả năng lây lan trong gia đình và là gánh nặng cho gia đình.
Tốn kém là vì bệnh nhân phải được điều trị trong bệnh viện cả tuần lễ, làm hao tổn ngân sách gia đình và xã hội và “chiếm dụng” tài nguyên y tế đáng lẽ phải dành cho các bệnh quan trọng khác. Ý thức phòng bệnh, do đó, không chỉ có lợi cho cá nhân người bệnh mà còn cho cộng đồng nói chung.
Quy mô bộc phát bệnh tả
Cần nói ngay rằng bệnh tiêu chảy (và bệnh tả) không phải là bệnh gì quá mới ở nước ta và các nước trong vùng. Thật vậy, theo y văn quốc tế (do người Pháp ghi lại), năm 1850, một trận dịch tả xảy ra ở miền Trung và Nam nước ta làm cho hơn 2 triệu người mắc bệnh. Năm 1885, một trận dịch lớn khác bộc phát làm cho nhiều lính Pháp mắc bệnh; và trong số lính mắc bệnh tỉ lệ tử vong lên đến 50%! Toàn quyền Paul Doumer cũng đã bị chết vì bệnh tả. Từ năm 1910 đến 1930, trung bình mỗi năm có khoảng 5.000 đến 30.000 trường hợp dịch tả được ghi nhận. Năm 1961, một nạn dịch tả lớn bộc phát ở Indonesia, và vi khuẩn V. Cholerae O1 lan truyền sang đến miền Nam nước ta làm cho 20.009 người mắc bệnh và 821 người chết. Từ năm 1979 đến 1996, trung bình mỗi năm có khoảng 3.000 trường hợp dịch tả được báo cáo. Phần lớn những trường hợp này xảy ra ở miền Trung và Nam, đặc biệt là các tỉnh phía Nam Trung phần như Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang, v.v...
Ngay cả trước khi bệnh tả bộc phát năm ngoái, một nghiên cứu theo dõi 400 gia đình ở Yên Sở (Hà Nội) trong khoảng 2,5 năm (từ tháng 11-2002 đến 5-2004) cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy là khoảng 28%. Một nghiên cứu khác ở Nha Trang trên 200.000 dân trong vòng 5 năm (2000 đến 2004) cho thấy tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy trong cộng đồng là khoảng 6%; trong số này có một số nhiễm vi khuẩn tả (tức bệnh tả). Do đó, bệnh tả vẫn thường xuyên xuất hiện ở nước ta, chứ không phải như nhận định của một quan chức y tế cho rằng bệnh tả nhất định sẽ xảy ra ở phía Nam. Vấn đề là quy mô phát sinh và tái phát sinh của bệnh làm cho chúng ta phải suy nghĩ đến một chiến lược lâu dài phòng chống bệnh.
Tại sao bệnh tả bộc phát
Nhưng để có một chiến lược lâu dài, chúng ta cần phải biết qua những yếu tố có liên quan đến bệnh. Nói một cách ngắn gọn, nguyên nhân chính của bệnh tả là do bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả (V. Cholerae). Nhưng các yếu tố nguy cơ dẫn đến nhiễm khuẩn tả thì có nhiều và các nghiên cứu trong quá khứ cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin có ích.
Nghiên cứu tại Yên Sở mà tôi vừa đề cập trên cho chúng ta biết bệnh tiêu chảy (trong số đó có bệnh tả) có liên quan đến những yếu tố sau đây (xem bảng 1). Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm uống nước giếng, tiếp xúc với người mắc bệnh tiêu chảy, không rửa tay sau khi đi tiêu/tiểu, tiếp xúc với nguồn nước bẩn, ăn rau sống hay thức ăn chưa nấu chín, ăn thức ăn để lại qua đêm mà không hâm nóng, v.v... Trong các yếu tố trên đây, nước là quan trọng nhất, và kế đến là các yếu tố liên quan đến vệ sinh cá nhân và an toàn thực phẩm.
Năm 1997, bệnh dịch tả bộc phát ở vài vùng ở Tanzania. Các nhà nghiên cứu tận dụng “cơ hội” này để tiến hành một nghiên cứu dịch tễ học và kết quả cung cấp cho chúng ta một số yếu tố nguy cơ có vẻ “gần” với những đặc điểm sinh sống ở nước ta (bảng 2). Kết quả trên một lần nữa cho thấy các yếu tố như nguồn nước uống, nhà xí, tắm sông (và ngạc nhiên thay, ăn cá khô) là những yếu tố rất quan trọng có liên quan đến bệnh dịch tả.
Chiến lược phòng ngừa
Với những kiến thức trên, chúng ta có thể thấy một chiến lược phòng bệnh phải bao gồm những biện pháp đồng bộ sau đây:
Thứ nhất, làm sạch nguồn nước. Các nghiên cứu trên rõ ràng cho thấy nguồn nước là yếu tố quan trọng nhất dẫn đến bệnh tiêu chảy và bệnh tả. Ngay cả ca bệnh tả tại TPHCM tuần vừa qua cũng xuất phát từ nguồn nước giếng bị nhiễm khuẩn tả. Do đó, cần phải có một chiến dịch làm sạch nguồn nước sinh hoạt và nước uống. Làm sạch nguồn nước ở đây bao gồm việc đun sôi trước khi uống và tẩy trùng bằng chlorine hay các hóa chất khử trùng. Đối với nông dân không có nước máy, nên khuyến khích sử dụng chlorine để làm sạch nước. Kinh nghiệm ở các nước vùng châu Mỹ Latinh trong thập niên 1980 và 1990 cho thấy chỉ đơn giản triển khai phong trào sử dụng chlorine làm sạch nước trong từng hộ có thể giảm sự phát sinh của bệnh tả đến 80%. Chi phí sử dụng chlorine theo tính toán của các chuyên gia y tế Mỹ chỉ tốn khoảng 2 USD mỗi hộ hằng năm.
Bảng 1 Nguồn: Đỗ Thùy Trang và đồng nghiệp. Epidemiology and etiology of diarrhoeal disease in adults engaged in wastewater-fed agriculture and aquaculture in Hanoi, Vietnam. Tropical Medicine and International Health 2007; 12 (Suppl): 2 23-33. Chú thích diễn giải số liệu: Tỉ số nguy cơ liên quan đến một yếu tố nguy cơ có thể diễn dịch qua một ví dụ như sau: những người uống nước giếng có nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy cao hơn người không uống nước giếng đến 10,5 lần. |
Thứ hai, vệ sinh và an toàn thực phẩm. Như trình bày trong phân tích trên, bệnh tả và tiêu chảy có liên quan chặt chẽ với nguồn thực phẩm và vệ sinh. Mà, vệ sinh thực phẩm là một vấn đề lớn ở nước ta. Người nước ngoài mới đến nước ta lần đầu rất ngạc nhiên khi thấyviệc quản lý vệ sinh thực phẩm ở nước ta quá lỏng lẻo. Hàng quán vỉa hè bày bán đủ thứ thức ăn mặc cho phơi nhiễm bởi bụi bậm và khói xe. Người dân xì xụp ăn uống và khi xong thì vô tư vứt rác ra lề đường và người “chủ quán” cũng vô tư vứt thức ăn thừa ra lề đường. Nước rửa chén đĩa được “tái sinh” không biết bao nhiêu lần. Đó là những cảnh cực kỳ hiếm thấy ở các nước mà dịch tả không còn là vấn đề y tế nữa. Do đó, biện pháp hàng đầu và số 1 trong việc phòng chống bệnh tả (và nhiều bệnh truyền nhiễm khác) phải là kiểm tra vệ sinh và an toàn thực phẩm. Thật ra, chúng ta có những qui định về vệ sinh thực phẩm, nhưng ít khi nào được áp dụng một cách nghiêm chỉnh. Đã đến lúc phải có áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt để kiểm tra, kiểm soát thực phẩm, kể cả trong tất cả các nhà hàng lẫn hàng quán vỉa hè.
Bảng 2
Nguồn: Acosta CJ, et al. Cholera outbreak in southern Tanzania: risk factors and patterns of transmission. Emerg Infect Dis. 2001;7(3 Suppl):583-7. |
Thứ ba,
vấn đề vệ sinh cá nhân. Phần lớn các yếu tố nguy cơ của bệnh tả thường liên quan đến tình trạng kinh tế và thậm chí văn hóa sinh hoạt của người dân. Phải thú nhận một thực tế là rất nhiều người chưa có thói quen rửa tay trước bữa ăn hay sau khi đi tiêu / tiểu, và cũng chưa xem nhà xí là một phương tiện phòng chống bệnh tật. Rất nhiều nhà hàng, nhà ở được xây dựng mới toanh và hoành tráng, nhưng cầu xí thì rất ư là tồi tệ. Ở vùng quê, nhiều nhà không có cầu tiêu và nhiều người vẫn còn đi tiêu ở trên sông, ruộng, ao, hồ, và gây ô nhiễm nguồn nước. Do đó, có lẽ chúng ta không ngạc nhiên khi thấy E. coli tìm thấy trong rau cải và nước. Chúng ta cần phát động một phong trào xây dựng nhà xí ở thôn quê và xây dựng nhiều nhà xí công cộng ở thành phố. Phải khuyến khích, nếu cần dùng ngân sách y tế hỗ trợ cho người dân nghèo, để mỗi nhà đều có một nhà xí tốt. Chúng ta đã có nhà khoa học nghiên cứu về mô hình nhà vệ sinh thích hợp cho nông thôn. Có lẽ Nhà nước cần xem mô hình của tác giả Lê Anh Tuấn đã nghiên cứu, để tiến tới một chiến dịch xây nhà vệ sinh cho dân.
Thứ tư, vắc-xin. Hiện nay, chúng ta có thể sản xuất vắc-xin với hiệu quả khá cao để phòng ngừa bệnh tả. Theo kết quả thử nghiệm tại Huế trên gần 52.000 người được công bố trên tập san Lancet năm 1997, hai liều lượng vắc-xin WB cho uống cách nhau từ 10-14 ngày, hiệu quả là 66% (ở trẻ em hiệu quả là 68%) sau 6-8 tháng theo dõi. Một nghiên cứu mới công bố vào tháng 11-2007 cho thấy chỉ cần 50%-70% dân số trong những vùng bị dịch tả (hay có nguy cơ cao, như các tỉnh phía Bắc hiện nay) uống vắc-xin 2 lần một năm và với hiệu quả như vừa mô tả, số ca bệnh tả có thể giảm đến 90%. Do đó, các bằng chứng khoa học trên chỉ ra rằng cần phải có một chiến dịch cho uống vắc-xin 2 lần/năm để phòng ngừa sự bộc phát của bệnh tả trong tương lai.
Biện pháp phòng ngừa cá nhân Ngoài chiến lược phòng ngừa, chúng ta cần phải phát động chiến dịch phòng ngừa bệnh ở mỗi cá nhân và gia đình. Các biện pháp thực tế nhất mà bất cứ gia đình hay cá nhân nào cũng làm được để giảm nguy cơ nhiễm khuẩn là: . Rửa tay sạch sẽ sau khi đi tiêu hay tiểu, sau khi thay tã cho trẻ em, và trước khi ăn. Rửa tay sau khi khi tiếp xúc với thú vật hay môi trường gia cầm sống. . Rửa sạch các dụng cụ bếp như bàn thớt, nồi niêu và dao... . Nếu cần, nên sử dụng chanh để diệt vi khuẩn trong rau cải hay mắm tôm. Chanh có khả năng diệt vi khuẩn tả rất hữu hiệu. . Tẩy trùng nguồn nước uống và nấu. Nguồn nước sinh hoạt gia đình cần được tẩy trùng bằng Chlorine và nguy cơ nhiễm khuẩn hay mắc bệnh tả sẽ giảm rất nhiều, nếu không muốn nói là ngăn ngừa. . Nấu chín thực phẩm, nhất là thịt heo, bò, chó, gà, v.v... Nhiệt độ phải ít nhất là 70oC. Vi khuẩn V. Cholerae có thể bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao hay môi trường nồng độ axít cao. Điều này có nghĩa là nếu thực phẩm và rau cải được nấu chín, nước uống được đun sôi. . Tránh uống sữa chưa qua diệt khuẩn bằng phương pháp Pasteur. . Tránh uống nước khi bơi lội dưới sông hay ao hồ dơ bẩn. |
Đừng để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai! Bệnh tả cho đến nay vẫn là một vấn đề y tế công cộng có quy mô toàn cầu và cũng là cũng một chỉ tiêu để đo lường sự phát triển xã hội. Hằng năm, có khoảng 5-7 triệu người trên thế giới mắc bệnh tả và số tử vong vì bệnh này khoảng 100.000 người. Chỉ riêng năm 2005, WHO ghi nhận gần 132.000 trường hợp bệnh dịch tả và 2.272 trường hợp tử vong (tỉ lệ tử vong 1,72%) trên thế giới; trong đó, 98% trường hợp xảy ra ở Phi châu. Nói đến bệnh tả người ta nghĩ ngay đến Bangladesh (150 triệu dân), nơi mà bệnh tả bộc phát liên tục từ năm này sang năm khác, do nguồn nước ở đây bị ô nhiễm nặng nề và do vệ sinh thực phẩm vẫn còn chưa bảo đảm. Bất cứ du khách nào từ phương Tây đi du lịch ở Bangladesh đều được cảnh báo về tình trạng nguồn nước, về nguy cơ mắc bệnh tả và bệnh tiêu chảy. Trong bối cảnh bệnh tả “đến hẹn lại lên” như hiện nay, nước ta có nguy cơ thành một Bangladesh thứ hai. Nếu chúng ta không quyết liệt trong chiến dịch phòng chống bệnh tả như vệ sinh thực phẩm, làm sạch nguồn nước và nhà vệ sinh, có lẽ trong chúng ta không ai muốn thấy một viễn cảnh như thế vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành du lịch và uy tín nước ta trên trường quốc tế. |