Công dụng chữa bệnh của lươn
Ở Nam Bộ có nhiều phương thức chế biến lươn như xào lăn, xé phay, nấu lẩu... Tại miền Bắc, món ăn nổi tiếng nhất có lẽ là miến lươn. Theo bác sĩ Nguyễn Văn Thông, lươn có thành phần dinh dưỡng rất cao. Trong 100 g thịt lươn chứa 12,7 g chất đạm, 25,6 g chất béo tổng cộng (trong đó có 0,05 g cholesterol) và 285 calo. Ngoài ra, thịt lươn còn chứa nhiều loại vitamin và khoáng chất như vitamin A, B1, B6 hay chứa chất sắt, natri, kali, canxi...
Lươn đồng rất phổ biến tại VN, nhất là ở miền Tây Nam Bộ. Lươn biển hay cá chình là loài cá có thân như rắn nhưng có vi ở lưng, ngực và phần dưới. Lươn biển dài khoảng 1,5 m, thường có màu nâu sậm hoặc màu xanh trên lưng, còn phần dưới bụng lại có màu vàng nhạt. Lươn biển thường sống ở vùng nước lợ ven biển. Theo Đông y, lươn có tác dụng bồi bổ khí huyết, trừ được phong thấp, có thể chữa được bệnh suy dinh dưỡng, kiết lỵ, đau nhức xương sống, phong thấp, trĩ nội, bệnh huyết trắng của phụ nữ. Phụ nữ có thai không nên dùng lươn. Với đặc tính bổ dưỡng và sinh khí huyết, máu lươn có khả năng tăng cường “dương khí”, giúp máu huyết lưu thông, trị được chứng khô miệng, đau nhức trong tai và tăng cường khả năng tình dục.
Chữa tiêu chảy với phân có đàm nhớt và máu: Nướng một con lươn nước ngọt sau khi mổ bỏ ruột gan và tạng phủ. Sau đó rang với 10 g đường vàng, tán thành bột. Uống bột với nước ấm ngày 3-4 lần, mỗi lần 1-2 muỗng cà phê.
Chữa bệnh trĩ: Ăn thịt lươn (lươn biển hay lươn nước ngọt) để giúp cầm máu và trị búi trĩ. Khi nấu lươn nên dùng nồi đất để giảm bớt mùi tanh của lươn. Mổ lươn theo cách cổ truyền là không dùng dao mà dùng cật tre vót mỏng để tránh sự tương khắc giữa máu lươn với kim loại gây tanh.
Trị chứng suy nhược do lạm dụng tình dục: Đun lươn (lươn biển) với rượu chát đỏ đến khi cạn (1 con dùng 250 ml rượu). Sau đó nướng lươn đã nấu chín (cả da lẫn xương), xong tán thành bột. Uống mỗi ngày từ 7-10 g với rượu tùy theo tình trạng suy nhược.
Trị phong thấp: Nên dùng lươn um (hầm) với sả và rau ngổ.
Chữa trị chứng bất lực: Lươn được hầm chung với hà thủ ô, hạt sen, mộc nhĩ (nấm mèo) hay nấm linh chi. Có thể thêm lá lốt.