Nhãn thuốc làm người bệnh mù mờ

Bác sĩ và bệnh nhân vẫn biết rõ những loại thuốc với tên hiệu của nó. Đã đến lúc cần thay đổi và học biết tên thực sự của thuốc, nghĩa là tên của chất liệu tạo ra công hiệu chữa bệnh.

Tại Mỹ cũng như ở một số nước trên thế giới, việc kê toa thuốc đều dựa vào xuất xứ của chất liệu hoặc viết các loại thuốc có tên gọi chung, mang tính quốc tế, gọi tắt là DCI. Tại Pháp, các bác sĩ thường chạy theo tên hiệu của các hãng kinh doanh dược phẩm.

DCI là đặt tên, tên gọi chung có tính quốc tế, chỉ rõ chất trị liệu chứa đựng trong viên thuốc. Nhờ DCI, người ta biết chắc chắn loại thuốc nào dùng được, kể cả cách sử dụng. Còn những loại thuốc có tính thương mại, các nhà kinh doanh dược phẩm chọn tên để thu hút sự chú ý, để bán hàng. Cùng một loại thuốc, nhưng được đổi thành nhiều tên khác nhau. Thực ra, vẫn giữ nguyên chất liệu, hình thức, liều lượng như paracétamol đã có nhiều tên gọi khác, mặc dù gốc căn bản vẫn là paracétamol.

Để chuyển từ lập luận dựa trên tên hiệu sang lập luận dựa trên chất liệu điều trị, các bác sĩ nên viết toa kê những loại thuốc thông dụng, phổ biến. Tại Anh, theo báo Prescrire, việc kê toa theo DCI đang phổ biến. Tên thật của thuốc mà chữ đầu và chữ cuối truyền đạt được ý tưởng trị liệu, rất dễ nhớ.

Độc lập với phòng thí nghiệm

img
img
Cùng một công dụng chữa bệnh nhưng lại có nhiều tên thương mại gây hiểu lầm cho người bệnh.
Cùng một công dụng chữa bệnh nhưng lại có nhiều tên thương mại gây hiểu lầm cho người bệnh.
Việc kê toa theo chất liệu cũng cho phép các bác sĩ giữ khoảng cách với phòng thí nghiệm. Nghĩ đến DCI, bác sĩ hiểu biết tốt hơn về thuốc, ví dụ như sự lầm lẫn giữa Zyrtec, một loại thuốc chống dị ứng và Zyprexa chống chứng loạn thần, sẽ không được thế vào nếu đã biết rõ DCI. Theo DCI, tên cuối zapine cho biết đây là loại thuốc chống loạn thần. Kê toa theo chất liệu, giúp bác sĩ tránh viết đơn thuốc mà không biết những chất liệu phối hợp ẩn chứa bên trong tên hiệu.

Sự hiểu biết tính chất thật của thuốc cũng cho phép phát hiện các thành phần kết hợp vẫn không thay đổi với tên hiệu mới. Kê toa theo DCI, là tham dự vào sự phân phối, công việc giữa bác sĩ và nhà bào chế, hiệu thuốc. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nên chọn một chất liệu có tính trị bệnh hiệu quả. Tuy có giới hạn nhưng cũng phải biết thuốc do ai sản xuất và tên hiệu nào không mang tính thương mại. Điều này giúp cho dược sĩ khả năng lựa chọn đặc tính tốt nhất và giá cả phù hợp với xã hội.

Bệnh nhân cũng tiến bộ

Nếu bác sĩ biết nhiều về thuốc sẽ tránh được lầm lẫn và độc lập với phòng thí nghiệm, điều này có lợi cho bệnh nhân. Càng ngày số lượng thuốc càng gia tăng, trình độ hiểu biết, nhu cầu tiêu dùng càng nhiều. Theo báo Prescrire, việc kê toa theo DCI là cơ hội để chia sẻ với bệnh nhân những lý do tại sao phải chỉ định các loại thuốc cùng với những yếu tố cần thiết trong quá trình điều trị. Tràn ngập bởi vô số thông tin khác biệt về chất lượng khác nhau, bệnh nhân thường thích hiểu rõ ràng hơn những cách thức trị liệu được bác sĩ chỉ định cho họ và không bị tác động bởi thủ đoạn công nghiệp. Điều này giúp cho bệnh nhân nhận định được cùng một loại chất liệu khi đi mua thuốc không toa. Sự hiểu biết về DCI rất có ích.

Phát hiện

Thuốc bày bán tự do có thể làm thay đổi các thành phần kết hợp nhưng lại không đổi tên hiệu. Theo báo Prescrire, trường hợp thuốc Compralgyl có chứa aspirine, phénacétine, codéine, phénobarbital, caféine. Năm 1981, chỉ còn phénobarbital và caféine. Năm 1990 có aspirine và codéine. Sau đó aspirine nhường chỗ cho Paracétamol. Thí dụ này cho thấy cách thức hài hước mà những tên hiệu thương mại không phù hợp với những cái có trong thuốc.

Xác định của DCI giúp bệnh nhân sắp xếp thời gian uống thuốc. Chắc chắn, bác sĩ cũng như bệnh nhân sẽ không thay đổi thói quen sử dụng thuốc.

Câu chuyện về một bé gái 5 tuổi, ho, sốt, nghẹt mũi khó thở. Mẹ của bé cho dùng một liều Advil nhưng về đêm bé thức dậy vì đau tai. Thấy trong nhà còn Nureflex dùng cho trẻ, mẹ tiếp tục cho uống. Bé vẫn còn đau. Mẹ lại muốn thử thuốc khác hoặc tăng liều dùng Nureflex. Cuối cùng mẹ bé dùng Antarène để giảm đau. Mấy giờ sau, bé đau bụng dữ dội. Cuối cùng phải đưa vào bệnh viện. Như thế, bé đã dùng 3 lần cùng một loại thuốc giảm đau (ibuprofène) dưới nhiều tên thương mại khác nhau. Kết quả: liều dùng đó không có hiệu quả chữa bệnh cúm, ngược lại còn gây thêm rối loạn bao tử gọi là viêm dạ dày.