Những lý do khiến bệnh viện tuyến cuối quá tải
Công nghệ cao phát triển nhanh, kết quả định bệnh và điều trị chính xác, phương tiện giao thông thuận lợi, sự khập khiễng trong hệ thống y tế... đã thu hút nhiều bệnh nhân vào các bệnh viện tuyến cuối. Bệnh viện Nhi Đồng (BV NĐ) 1 TPHCM, BV Chợ Rẫy, BV Phụ sản Từ Dũ - những đơn vị hướng trợ toàn miền Nam - là bức tranh thu nhỏ của tình trạng quá tải bệnh viện nói chung
Một điều ai cũng rõ: Quá tải tỉ lệ nghịch với chất lượng khám, điều trị; nhân viên y tế căng thẳng, bực bội, còn bệnh nhân thì không hài lòng, thậm chí gởi đơn thưa kiện khi có trường hợp tử vong. Và quá tải đến mức các y, bác sĩ tuyến cuối “không kịp thở” trong khi nhiều BV tuyến trước lại quá “đìu hiu”.
Y tế tuyến trước “né” bệnh?
Hầu như thân nhân bệnh nhi nào cũng có câu trả lời gần giống nhau khi được hỏi lý do họ đưa con em đến các BVNĐ TP: Thầy thuốc giỏi, trang thiết bị tốt, nói chung là uy tín. Họ chấp nhận đi xa, chờ đợi, chen lấn để đổi lấy sự an toàn cho con cái, đặc biệt trong tình huống lằn ranh sinh- tử mỏng như sợi tóc.
Điều nghịch lý là dòng bệnh nhân vẫn tiếp tục hướng về TP bất chấp nỗ lực hướng trợ tuyến trước của BVNĐ 1 và các BV khác của TP. Theo phân tích của BVNĐ 1, những bệnh nhẹ từ các tỉnh về BVNĐ 1 từ 2 hướng: Do chuyển viện và do người nhà tự đưa đi. Riêng các trường hợp nặng, theo bác sĩ giám đốc Trần Tấn Trâm, 90% trường hợp tử vong tại BVNĐ 1 là bệnh nhân từ các tỉnh. Điều này cho thấy, nếu hệ thống y tế tuyến trước đủ sức cáng đáng thì nhiều ca bệnh (có khi không nặng nhưng lại trở nặng trên đường xa chuyển viện) có cơ may được cứu sống. Bác sĩ Trần Tấn Trâm âu lo nhận xét: “Vậy là càng tổ chức đi tuyến để huấn luyện nhiều, BVNĐ 1 càng nhận bệnh đông”. Và ông tự lý giải: Ở dưới anh em khó khăn đủ điều, trang thiết bị thiết yếu thiếu, cả chục năm nay không thấy ai đi học nước ngoài. Anh chị em cũng bị áp lực trước một số bệnh khó, bệnh lạ gây tử vong nhiều như sốt xuất huyết, viêm não cấp... nên dễ sinh tâm lý “né” bệnh, “đẩy” bệnh, tìm giải pháp an toàn. Đã vậy, còn có chuyện lãnh đạo một tỉnh nọ ở miền Tây “đe” sẽ xử lý “tới nơi” nếu ngành y tế tỉnh để bệnh nhân chết vì sốt xuất huyết... Tất cả đã làm cho y, bác sĩ tuyến đầu càng thiếu tự tin.
Thiếu giường nằm cho bệnh nhi sơ sinh
Bác sĩ Trần Tấn Trâm cho rằng không có tình trạng “tái quá tải” như một số người nhận xét, mà chỉ có sự “tiếp tục quá tải” tại BVNĐ 1 và có thể ở nhiều BV khác. Bởi lẽ, số bệnh nhân đến khám không bao giờ giảm mặc dù số giường và các phòng khám tăng không ngừng. Số liệu thống kê cho thấy: Bệnh nhân ở tỉnh và khu vực ngoại thành TPHCM chiếm khoảng 70% tổng số người bệnh; bệnh lý đơn giản chiếm 70%, phức tạp chiếm 30%; trên 80% bệnh nhi thuộc gia đình nghèo; bệnh nhân đến khám buổi sáng cao gấp 10 lần buổi chiều; số lượng sơ sinh ngày càng đông không đủ giường nằm, cường độ lao động phẫu thuật nhi rất cao... Rõ ràng, những con số ở đây rất có ý nghĩa về mặt thống kê khi BV phải tái bố trí nhân lực, công nghệ để đối phó với một sức ép ghê gớm.
Trong thực tế, tình trạng quá tải dai dẳng đã ít nhiều làm xáo trộn hệ thống y tế quốc gia, y tế khu vực mà đặc biệt đã làm hạn chế sự phát triển ngành nhi khoa các tỉnh, do đó cần sự can thiệp mạnh mẽ của Bộ Y tế.
“Chúng tôi cũng đang bí!”
Bác sĩ Phạm Thị Nguyệt Ánh, Phó Giám đốc BV Chợ Rẫy, đã cho biết như vậy. Là một BV đa khoa trung ương, chịu trách nhiệm toàn khu vực phía Nam nên tình trạng quá tải là điều dễ hiểu khi quy mô BV chỉ ở mức 1.200 giường nhưng bệnh nhân luôn trên con số 1.800, tập trung vào các khoa ngoại thần kinh, chấn thương chỉnh hình, phỏng. Quá tải, theo bác sĩ Ánh, tất nhiên sẽ ảnh hưởng chất lượng điều trị. Để khắc phục, BV Chợ Rẫy áp dụng nhiều biện pháp: bảo đảm máy móc, thiết bị phục vụ khám, chẩn đoán ban đầu; tăng cường phẫu thuật trong ngày; rút ngắn thời gian nằm viện... BV còn hợp tác với một số đơn vị bạn để tăng thêm giường bệnh, mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề cho BV tuyến trước, chuyển giao kỹ thuật cho BV tuyến trước. Nhưng theo bác sĩ Ánh, cũng vì vậy mà người bệnh lại đến với BV nhiều hơn, quá tải lại vẫn quá tải!
Cao Tuấn - Duy Cường
Dược sĩ Huỳnh Thị Thanh Thủy, Phó Giám đốc BV Phụ sản Từ Dũ:
Chống quá tải bằng cách khám thông tầm, khám hẹn giờ
BV chúng tôi có 1.000 giường nội trú, nhưng luôn phải tiếp nhận từ 1.300 đến 1.500 bệnh nhân. Để chống quá tải, BV đề ra nhiều biện pháp như khám thông tầm, khám hẹn giờ, tăng cường bác sĩ giỏi cho phòng khám, “cắm chốt” thành viên BGĐ tại những điểm nóng để giải quyết tức thời mọi việc. Căn cơ nhất vẫn là hỗ trợ tuyến trước về chuyên môn, chuyển giao kỹ thuật. Được Bộ Y tế giao phụ trách 23 tỉnh, thành phía Nam, mỗi năm BV có hai lần tập huấn chuyên môn cho các BV tỉnh. Vừa qua, BV đã triển khai kỹ thuật mổ nội soi phụ khoa, rút ngắn thời gian nằm viện từ 5 ngày xuống 2 ngày. BV đang xây dựng khu nhà 9 tầng và sẽ xin TP xây thêm một khu nhà tương tự như vậy. Nhận thấy tình trạng quá tải dể dẫn đến tiêu cực, cả BV thống nhất một điều là không ai được nhận một xu của bệnh nhân khi họ còn nằm trong BV; ai có thái độ vòi vĩnh, nhũng nhiễu sẽ bị kỷ luật ngay.
P.Sơn ghi
8 kiến nghị của BV Nhi Đồng 1
1. Hỗ trợ BVNĐ 1 huấn luyện tuyến trước về các bệnh ưu tiên, bệnh khó và các chuyên khoa cần thiết. Mua sắm một số trang thiết bị điều trị cần thiết. Tạo điều kiện trong nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế.
2. Nâng cao sức mạnh 2 BV nhi khu vực ở Đồng Nai và Cần Thơ.
Huấn luyện liên tục nhân viên của 2 BV này. Thiết lập một khối nhi các tỉnh phía Nam gồm có BVNĐ 1, BVNĐ 2 và hai BVNĐ Đồng Nai, Cần Thơ.
3. Nâng cao sức mạnh các khoa nhi của BV đa khoa và xã hội hóa nhi khoa tại các tỉnh.
Tạo điều kiện thông tin 2 chiều với BVNĐ 1 và 2 BV nhi khu vực về tình trạng bệnh nhân chuyển viện và cách xử trí.
4. Quy định lại viện phí, giá khám bệnh theo từng loại BV nhằm giảm tải tuyến trên.
5. Phát triển bảo hiểm y tế (BHYT)á học đường và BHYT cho trẻ nghèo để giảm bệnh nhân đến thẳng tuyến trên.
6. Thực hiện biện pháp “thông tin góp ý” và “chế tài” trong chuyển bệnh. Thiết lập các loại “bệnh lý” cho từng tuyến BV.
7. Chuẩn hóa khoa nhi từ phòng ốc, trang bị, con người, các quy trình, phác đồ, đặc biệt là kinh phí chuẩn...
8. Thực hiện BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi do gia đình và Nhà nước đóng góp.
(Nguồn: Trích kiến nghị của BV Nhi Đồng 1)