Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới "hành lang thoát lũ dữ" ngày nay

(NLĐO) - Xây dựng hàng lang thoát lũ để khơi thông dòng chảy của các sông là giải pháp cần thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.

Nỗi đau, thiệt hại về trận lũ lụt lịch sử ở nhiều tỉnh thành miền Bắc chưa thể nguôi ngoai, miền Trung lại vừa phải oằn mình chống lũ. Những ngày cuối tháng 10 đợt mưa lớn cục bộ diễn ra, trong đó đỉnh Bạch Mã (TP Huế) mưa tới 1.739,6 mm trong 1 ngày, chỉ sau lượng mưa lớn nhất thế giới tại một điểm quan trắc ở Ấn Độ Dương hồi tháng 1-1966 đã khiến nhiều địa phương như TP Huế, TP Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quảng Trị ngập lụt, sạt lở nghiêm trọng.

"Gồng mình qua lũ dữ"

GS-TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam phân tích miền Trung có đặc thù lũ phức tạp hơn miền Bắc. Ở miền Bắc, lũ tập trung theo hệ thống sông; ở miền Trung, lũ tràn thẳng xuống khu dân cư, dọc sườn núi Bắc - Nam ra khu dân cư, chảy thẳng xuống làng mạc. Lũ miền Trung lên rất nhanh.

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 1.

Trận lũ lịch sử gây ngập lụt tại Huế năm 1995. Ảnh: Tư liệu

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 2.

Trận lũ vượt mốc lịch sử năm 2025 gây ngập lụt tại Huế năm 2025

Vì vậy, chiến lược ứng phó lũ ở 3 miền cũng khác nhau: Miền Bắc chống lũ, miền Trung "né tránh lũ", miền Nam chủ động sống chung với lũ. "Vì sao miền Trung phải né tránh lũ?" - ông Học nêu câu hỏi, đồng thời giải thích bởi điều kiện kinh tế và địa hình chưa cho phép đầu tư lớn, tạo ra kênh tách lũ, hứng lũ về rồi đưa ra sông, vì vậy giải pháp duy nhất là tránh lũ, di dời người dân khỏi nơi nguy hiểm.

Việt Nam hiện có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh và thành phố. Vị trí địa lý đã tạo nên sự đa dạng về tự nhiên, tài nguyên nước phong phú, điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội các vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nằm trong vùng chịu nhiều thiên tai liên quan đến nước như bão, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn hằng năm.

Ông Nguyễn Việt, Nguyên Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là TP Huế), Tổng cục Khí tượng thủy văn (trước đây) dẫn trong tư liệu sử sách những trận lụt lịch sử gây ngập lụt Kinh thành Huế cũng được ghi lại. Tháng Tám năm Tân Mùi 1811, Kinh đô Huế gặp bão, lụt, nước ngập hơn 8 thước. Trận lũ 1811 ngập hoàng cung 3,36 m, phá vỡ cửa Tư Hiền; Trận lụt 1818 Kinh thành Huế ngập sâu 4,2 m; Tháng Tám năm Quý Mão 1843, Kinh đô Huế mưa to, nước sâu 3-4 thước; Trận lụt 1941-1942 tại Kinh đô Huế làm 700 ngôi nhà bị sập; Trận lụt tháng 10-1844 làm hơn 1.000 người chết đuối, gần 2.000 ngôi nhà bị đổ, cột cờ ở kỳ đài bị gẫy; Nhiều trận lũ tiếp theo từ 1844-1856 phá hủy hơn 1.000 ngôi nhà; 2/3 Ngọ Môn bị sụp đổ…

Nói về công tác trị thủy, GS-TS Đào Xuân Học, chia sẻ hành trình lịch sử bắt đầu từ buổi bình minh dân tộc với dấu ấn trị thủy đã manh nha thời Văn Lang - Âu Lạc qua huyền thoại và những công trình đào kênh, đắp bờ sơ khai. Điều này tiếp nối bằng công cuộc đắp đê ngăn lũ vĩ đại kéo dài hàng thiên niên kỷ ở Đồng bằng Sông Hồng, khởi đầu từ việc bảo vệ kinh thành Thăng Long, trải qua bao thế hệ với những trăn trở "để đê hay bỏ đê" và những kỳ tích trong việc đắp đê lấn biển, mở rộng không gian sinh tồn.

Dấu ấn trị thủy qua các thời kỳ

Trong đó phải kể tới dấu ấn như: Triều đình Nhà Trần và Nhà Hồ đã nhận thức rõ rằng muốn bảo vệ mùa màng, tài sản và tính mạng nhân dân thì phải xây dựng và bảo vệ hệ thống đê điều, đồng thời chú trọng cả 3 hoạt động chính: Đắp đê, hộ đê và thủy nông.

Tháng 3-1248, vua Trần Thái Tông ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bờ biển nhằm chống lũ, gọi là đê Đỉnh Nhĩ hay đê quai vạc.

Đây là công trình mang tính bước ngoặc trong lịch sử thủy lợi Việt Nam, tạo thành một hệ thống đê điều thống nhất và có cơ quan chuyên trách quản lý (Hà đê sứ).

Các đoạn đê được nối lại, củng cố và nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo vệ diện rộng. Việc đắp đê Đinh Nhĩ để ngăn lũ tràn, không chỉ được thực hiện ở Đồng bằng Sông Hồng mà còn mở rộng đến Thanh Hóa và Nghệ An, là một bước ngoặt to lớn về phát triển thủy lợi Việt Nam. Từ đây, mỗi năm các quan chức phải đốc thúc dân chúng và binh lính tu sửa đê trước mùa lũ.

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 3.

Lũ ở xã Trung Giã, Hà Nội vừa qua gây ngập nhiều khu dân cư. Ảnh: Nguyễn Hưởng

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 4.

Trận lũ ở Thanh Hóa vừa qua. Ảnh: Thanh Tuấn

Dưới Triều đại Lê Sơ, việc đắp đê gồm cả đê sông và đê biển nhằm ngăn nước mặn xâm nhập, kết hợp với các biện pháp tưới tiêu hiệu quả. Đối với đê sông, việc bồi đắp, củng cố đê điều hằng năm đã trở thành một truyền thống. Các biên niên sử thời kỳ này chủ yếu ghi chép những sự kiện liên quan đến việc ban hành luật lệ mới, xây dựng công trình thủy lợi quan trọng hoặc huy động nhân lực trên quy mô lớn.

Năm 1467, do ảnh hưởng của gió bão và nước biển dâng cao, đê biển tại các vùng Nam Sách, Thái Bình và Kiến Xương đều bị vỡ. Các huyện đầu nguồn ở Nghệ An cũng chịu thiệt hại tương tự. Trước tình hình này, vua Lê Thánh Tông đã cử quan trong triều đình trực tiếp đến các đạo ven biển để kiểm tra hiện trạng và đốc thúc các Ty Thừa chính sở tại nhanh chóng, khác phục, sửa chữa.

Hay đắp đê dưới thời vua Minh Mệnh (1820 - 1841), khi lên ngôi vua Minh Mệnh tiếp tục chủ trương tích cực đắp đê điều. Triều đình tiếp tục nhất quán chính sách đắp đê, xem đây là giải pháp hiệu quả nhất để bảo vệ sản xuất và đời sống nhân vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Từ năm 1820 đến 1832, hầu như năm nào vua Minh Mệnh cũng tổ chức đắp đê lớn ở Bắc Thành. Đặc biệt, trong giai đoạn 3 năm (1829 - 1831), nhờ công tác thủy lợi tích cực, Bắc Thành không xảy ra lũ lụt nghiêm trọng, minh chứng cho hiệu quả ban đầu.

Ngay khi đất nước giành được độc lập tháng 8-1945, trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác đê điều và thủy nông. Nhiều hệ thống đê điều và công trình thủy nông quan trọng đã được khôi phục và xây dựng mới, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước. Coi thủy lợi là mặt trận hàng đầu, là hạ tầng thiết yếu để bảo vệ sinh mạng, tài sản của người dân, bảo đảm an ninh lương thực.

Hành lang thoát lũ

Trở lại câu chuyện ở Kinh thành Huế, ông Nguyễn Việt đánh giá do vị trí địa lý nên Huế là vùng chịu ảnh hưởng của lũ lụt từ xưa đến nay. Khi xưa chưa đô thị hóa, độ che phủ rừng còn nhiều, Huế đã ngập và sau này những tác động của phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến lũ nhưng không quyết định tất cả.

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 5.

Lũ trên sông Cầu, Thái Nguyên vừa qua. Ảnh: Báo Thái Nguyên

Trong điều kiện và khả năng của khoa học dự báo, cảnh báo hiện nay Tổ chức Khí tượng thế giới khuyến nghị các quốc gia triển khai dự báo tác động và cảnh báo các nguy cơ rủi ro. Do đó, khi có cảnh báo sớm người dân cần chuẩn bị và liên tục cập nhật các bản tin dự báo, cảnh báo chính thức để sẵn sàng trước mọi nguy cơ rủi ro do lũ, ngập lụt để sống chung với lũ và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Trong vài năm gần đây, trước tác động của biến đổi khí hậu, mưa lớn gây ngập lụt ở nhiều khu vực, cư dân sinh sống ở hạ lưu dễ bị ngập.

Theo báo cáo từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thiệt hại do bão lũ ước tính lên tới 46.000 tỉ đồng, khiến 211 người bị thiệt mạng.

Vì vậy, Bộ NN-MT đề nghị các Bộ, ngành và địa phương tổ chức thực hiện và tăng cường kiểm tra thực hiện nghiêm túc các quy hoạch liên quan đến đê điều, phòng chống thiên tai, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội…

Bộ cũng đề xuất cần có cơ chế, chính sách đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong phòng chống thiên tai, đê điều, thủy lợi, nhất là đối với các xã có đê, hồ chứa. Đầu tư, nâng cấp hệ thống đê điều, hồ đập, công trình cơ sở hạ tầng khác có trọng tâm, trọng điểm; đặc biệt ưu tiên nguồn lực xử lý dứt điểm các trọng điểm đê điều, hồ đập theo hướng bền vững, chống được bão, lũ lịch sử đã xảy ra.

Từ lịch sử trị thủy qua các triều đại tới hành lang thoát lũ dữ ngày nay - Ảnh 6.

GS-TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam

Nhìn lại những trận lũ ở miền Bắc vừa qua, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đào Xuân Học, cho biết nguyên nhân khách quan là do mưa cực lớn, cực đoan. Từ trước đến nay, hiếm khi xuất hiện những trận mưa như vậy. Có những trận lượng mưa vượt 600 mm, phần lớn trên 500 mm, bình quân hơn 400 mm - rất cực đoan. Mực nước trên các sông như sông Cầu, sông Cà Lồ dâng rất cao, vượt mức lịch sử, chưa từng xảy ra. Cùng lúc đó, mực nước triều ở biển cũng rất cao, khiến khả năng tiêu thoát nước ra biển bị hạn chế, nước rút chậm, gây ngập lụt nghiêm trọng.

Về nguyên nhân chủ quan, tức yếu tố con người, có thể thấy rằng chúng ta đã sử dụng quá mức vùng trũng thấp và bãi sông. Nhiều khu vực trũng thấp đã được quy hoạch thành đô thị, trong khi các vùng bãi sông bị lấn chiếm, người dân xây dựng dày đặc, khai thác và đổ cát chặn dòng chảy, thậm chí xây dựng công trình kiên cố.

Để chống lũ dữ, GS-TS Đào Xuân Học nhắc tới khái niệm "Hành lang thoát lũ" - được đặt ra từ năm 2007, nhằm đảm bảo không gian cho dòng lũ đi qua. Tất cả công trình cản trở dòng chảy phải di dời. Ngoài hành lang được phép xây dựng kiên cố. Theo đó, mỗi con sông cần tính toán lưu lượng thiết kế đảm bảo an toàn cho người dân, tính toán chiều rộng, diện tích, tạo thêm hệ số an toàn để xây dựng hàng lang thoát lũ.

Theo chuyên gia, bài học từ Hà Lan rất đáng tham khảo: gần vùng nước chảy mạnh thì phải di dời dân để đảm bảo an toàn; ở gần vùng nước chảy yếu, nếu dân ở lại, Nhà nước phải cấp đất, hỗ trợ di dời; ai không di dời thì phải cam kết tự chịu trách nhiệm, xây nhà trên cọc cao hơn mức ngập.

"Giải pháp hành lang thoát lũ cần được thực hiện sớm, có lộ trình rõ ràng để chống ngập cho đô thị" - ông GS-TS Đào Xuân Học nhấn mạnh.

Trước mắt, chuyên gia khuyến nghị cần nâng cao nhận thức quản lý thiên tai dựa vào cộng động, thông báo mực nước lũ cao nhất để người dân chủ động bảo vệ tài sản, thu hoạch hoa màu trước mùa mưa lũ, thành lập đội xung kích hỗ trợ di chuyển, cứu trợ người yếu thế.

Về lâu dài, cần xây dựng hành lang thoát lũ thông thoáng, yêu cầu nhà dân ven sông thiết kế sàn cao, tầng trệt thoáng để nước chảy, và có quyết tâm của Nhà nước cùng người dân trong việc di dời. Khi tạo hành lang, diện tích dòng sông giảm nhưng tạo được quỹ đất di dời. Các địa phương cần quy hoạch phòng chống lũ cụ thể; học hỏi mô hình Hà Lan, cho phép dân ở lại nhưng cam kết an toàn; khi xây sửa nhà phải đảm bảo không cản dòng chảy.

Không để người dân nơm nớp lo vỡ hồ, đập

Sự cố vỡ đập Thủy điện Bắc Khê 1 (Lạng Sơn) do ảnh hưởng của bão số 11 Matmo ngày 7-10-2025 đã gây thiệt hại về tài sản và hoa màu khoảng 50 tỉ đồng, hàng trăm hộ dân phải sơ tán. Hay sự cố vỡ "ao"/hồ chứa ở Trang trại Việt Phong Phú (Lâm Đồng) mới đây không chỉ gây thiệt hại về tài sản mà còn cướp đi tính mạng của một bé gái. Theo đó, các chuyên gia cho rằng việc quản lý, phê duyệt các hồ đập thủy điện, hồ chứa là vấn đề cần được quan tâm, cần thu về một đầu mối quản lý thông qua các quy định tại một Bộ luật về Thủy lợi, tránh chồng chéo giữa các Bộ, ngành.