Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) được triển khai từ tháng 1-2013 với tổng số vốn được phê duyệt là 87,6 triệu USD, gồm vốn viện trợ không hoàn lại của Tổ chức Hỗ trợ phát triển giáo dục toàn cầu 84,6 triệu USD và vốn đối ứng trong nước 3 triệu USD. Một chương trình tưởng chừng là lý tưởng và được triển khai rầm rộ trong cả nước nhưng rất nhiều trường sau một thời gian thí điểm đã phải kêu cứu, xin không tiếp tục áp dụng.
Đồng loạt xin "thoát"
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Colombia những năm 1995-2000 để dạy học sinh trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Sau hơn 3 năm triển khai tại Việt Nam (từ năm học 2012-2013), VNEN đã nhận được rất nhiều phản ứng của phụ huynh vì chất lượng học tập của con em đi xuống.
Ngay trước năm học 2016-2017, cho rằng chất lượng học tập của con em ngày càng sa sút, tập thể phụ huynh khối 7 Trường THCS Chu Văn An (huyện Hương Khê, tĩnh Hà Tĩnh) đã đồng loạt ký đơn kiến nghị khẩn thiết gửi chủ tịch UBND tỉnh và các cơ quan chức năng xin cho con em được thoát học mô hình VNEN. Không chỉ Hà Tĩnh, nhiều địa phương như Nghệ An, Hà Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu… cũng đã có văn bản dừng việc mở rộng dự án này như kế hoạch.
Học sinh Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi (TP HCM) trong một giờ học theo mô hình VNEN Ảnh: TẤN THẠNH
Vậy lý do gì một mô hình với tên gọi trường học mới lại gây ra những phản ứng dữ dội như trên?
Theo ông Lê Ngọc Điệp - nguyên Trưởng Phòng Giáo dục tiểu học, Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) TP HCM, một trong những người tham gia triển khai mô hình ngay từ đầu tại TP - phải ghi nhận ý tốt của Bộ GD-ĐT là tận dụng nguồn kinh phí không hoàn lại để học sinh tiếp cận mô hình giáo dục có nét tương đồng. Ông Điệp cho biết lúc này, rất nhiều địa phương và các nhà giáo không biết thỏa thuận của phía tài trợ và Bộ GD-ĐT là áp dụng hoàn toàn hay từng phần của mô hình.
"Kể cả kinh phí tài trợ, chúng tôi cũng không được biết. Lúc đầu triển khai tại TP HCM, chúng tôi chỉ chọn 1 trường là Trường Tiểu học Tân Thông Hội (huyện Củ Chi) và kinh phí họ cũng chuyển trực tiếp cho trường" - ông Điệp nhớ lại.
Dù là một trường tiểu học ở khu vực ngoại thành, với sĩ số ít nhưng qua quá trình triển khai VNEN, ông Điệp kể đã kiến nghị TP HCM và cả Bộ GD-ĐT rằng mô hình này rất khó thực hiện, chỉ nên cho các địa phương vận dụng chứ không thể áp dụng. "Chúng ta chỉ có thể vận dụng những ưu điểm của mô hình, những cái phù hợp và có lợi cho học sinh - khác hoàn toàn với việc bê nguyên xi vào giảng dạy và thực hiện. Nếu TP HCM áp dụng hoàn toàn nghĩa là một bước thụt lùi của giáo dục" - ông Điệp nhìn nhận.
Chạy theo số lượng
Theo đánh giá của các chuyên gia, để triển khai mô hình cần có các điều kiện đi kèm. Trong khi đó, những yếu tố cơ bản phục vụ cho việc triển khai VNEN rộng rãi như cơ sở hạ tầng (trường, lớp, sân chơi, bãi tập…) chưa bảo đảm đồng bộ về chất lượng và số lượng.
Thêm vào đó, việc đổi mới chưa đi theo một lộ trình phù hợp. Đội ngũ nhà giáo tham gia mô hình 100% là những người quen với nếp dạy truyền thống nên dù có được tập huấn cũng còn nhiều bỡ ngỡ. Trường lớp, bàn ghế, sĩ số... vốn được thiết kế cho mô hình dạy học truyền thống nên khi đưa vào sử dụng để dạy học theo VNEN không thể đáp ứng tốt được. Sự bất cập với điều kiện đặc thù về giáo dục, kinh tế, văn hóa, thổ nhưỡng vùng miền đã khiến việc triển khai VNEN gặp nhiều trở ngại.
Khi nói về VNEN, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng đó là cách làm quá nóng vội, chắp vá. Thậm chí, từ ý tốt là xin được nguồn kinh phí không hoàn lại nhưng trở thành tham lam khi triển khai mập mờ, không hiệu quả, gây nên phản ứng dữ dội.
Hiệu trưởng một trường tiểu học tại TP HCM cho hay nếu quy định phải áp dụng thì trường áp dụng, còn nếu được tự nguyện thì trường sẽ không thực hiện. Bởi lẽ, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế khi áp dụng ở một TP lớn. Đơn cử là việc giảng dạy và tổ chức lớp học theo khuôn mẫu không phát huy khả năng sáng tạo của giáo viên, hoạt động của học sinh cũng rất rập khuôn. Ngoài ra, thời đại công nghệ thông tin phát triển nhưng mô hình VNEN hầu như không nhắc tới việc sử dụng các thiết bị.
Ông Lê Ngọc Điệp cho rằng chính cách triển khai vội vã, những bước chuẩn bị cập rập, không tính toán đã dẫn đến sự thất bại của VNEN. Tính vội vã thể hiện ở chỗ công tác tập huấn không hiệu quả, giáo viên không thể một sớm một chiều thay đổi, phụ huynh không biết được con họ được gì từ mô hình này.
Triển khai rầm rộ, kết thúc âm thầm
Tháng 10-2016, Bộ GD-ĐT đã có một báo cáo ngắn gọn về một số thông tin liên quan đến VNEN. Theo đó, bộ nhìn nhận khó khăn của dự án là thời gian triển khai ngắn, phạm vi triển khai rộng khắp các tỉnh, thành cả nước với trình độ quản lý và tổ chức không đồng đều ở các cấp khác nhau. VNEN phải triển khai đổi mới đồng bộ trong khi điều kiện áp dụng tại một số trường học ở Việt Nam chưa chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, đội ngũ, dẫn tới hiệu quả chưa được như mong muốn. Việc áp dụng mô hình chưa linh hoạt và chưa phù hợp với điều kiện của một số địa phương…
Bộ GD-ĐT cũng thừa nhận lộ trình và bước đi triển khai VNEN chưa phù hợp, cán bộ quản lý và giáo viên chưa được chuẩn bị chu đáo, một bộ phận ngại đổi mới hoặc áp dụng mô hình một cách máy móc. Việc triển khai nóng vội, áp dụng ngay cả ở những trường còn khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, sĩ số lớp học đông... Điều đó dẫn đến việc tổ chức hoạt động giáo dục chưa đạt được hiệu quả mong muốn, gây ra những băn khoăn trong dư luận.
Một giải pháp rõ ràng cho hàng ngàn ngôi trường thực hiện thí điểm VNEN khi đề án kết thúc cũng hoàn toàn không được Bộ GD-ĐT đưa ra. Báo cáo của bộ chỉ buông hờ một câu ngắn gọn: "Khuyến khích các cơ sở giáo dục đang triển khai Mô hình trường học mới tiếp tục triển khai trên cơ sở tự nguyện, bảo đảm đạt hiệu quả thiết thực và duy trì trong suốt cấp học vì quyền lợi của học sinh".
Theo số liệu từ Dự án VNEN, năm học 2011-2012, Bộ GD-ĐT triển khai thí điểm mô hình này tại 24 trường học thuộc 12 huyện ở 6 tỉnh. Năm học 2012-2013, triển khai trên diện rộng và thí điểm tại 1.447 trường tiểu học trên 63 tỉnh, thành trong cả nước. Năm học 2015-2016, 4.177 trường tiểu học ở 63 tỉnh, thành triển khai thực hiện mô hình này.
Một chuyên gia giáo dục cho rằng ở nước ngoài, lãnh đạo ngành giáo dục sẵn sàng xuống đường phát tờ rơi để giải thích về những đổi mới để mọi người đều biết và thực hiện. Còn ở Việt Nam, chúng ta cứ thế triển khai rồi im lặng kết thúc. Cứ cho rằng số tiền 84,6 triệu USD kia là miễn phí thì chúng ta đã sử dụng quá lãng phí mà không mang lại lợi ích thật sự, biến học sinh của hơn 4.000 trường tiểu học trở thành đối tượng thí nghiệm trong một giai đoạn rồi sau đó ra sao không cần biết!
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 5-5
Kỳ trước: Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ?
Kỳ tới: Đề án ngoại ngữ 9.300 tỉ khó về đích
Bình luận (0)