Công ty Dầu khí SOCAR (Azerbaijan) vừa ký kết hợp đồng dài hạn cung cấp dầu thô Azeri cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất trong năm 2014 với khối lượng lên đến 3,5 triệu thùng. Dự kiến việc cung cấp dầu thô từ Công ty Dầu khí SOCAR cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sẽ kéo dài đến năm 2016. Trước đó, từ tháng 8-2010, Công ty Dầu khí SOCAR đã cung cấp lô dầu thô đầu tiên cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất với 400.000 thùng (tương đương với 65.000 m3) và được tiến hành trộn theo tỉ lệ 13% dầu nhập với 87% dầu thô được lấy từ mỏ Bạch Hổ.
Nguồn từ mỏ Bạch Hổ giảm dần
Chiều 21-7, trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, đại diện lãnh đạo Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR - đơn vị quản lý Nhà máy Lọc dầu Dung Quất) cho biết hiện Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đang sử dụng 2 nguồn nguyên liệu chính là lượng dầu thô lấy từ mỏ Bạch Hổ và lượng dầu thô nhập khẩu từ nước ngoài. “Hiện nay, mỗi năm, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất sản xuất 6,5 triệu tấn sản phẩm các loại, trong đó, lượng nguyên liệu dầu thô từ mỏ Bạch Hổ đáp ứng khoảng 80%-85% cho hoạt động nhà máy, ngoài ra có một số dầu từ các mỏ Việt Nam khác và nhập khẩu từ nước ngoài” - đại diện này nói.
Một chuyên gia về dầu khí cho rằng Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được xây dựng hướng vào khai thác, sản xuất dầu từ mỏ Bạch Hổ nhưng quá trình xây dựng quá mất thời gian, bàn thảo từ năm 1990 nhưng đến năm 2009 mới đưa vào vận hành thì cũng là lúc sản lượng dầu thô khai thác từ mỏ Bạch Hổ giảm dần và buộc phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Ông Hồ Sỹ Thoảng - nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - cho biết lượng dầu thô nhập từ nước ngoài về sản xuất tại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất hiện nay đạt khoảng 10%-20% và không tăng thêm được nữa do thiết kế Nhà máy Lọc dầu Dung Quất ban đầu đã lựa chọn công nghệ đơn giản, nếu tăng lượng dầu nhập thì không chế biến được. “Thời kỳ 1997-1998 rất khó khăn, không có đối tác hỗ trợ nên Việt Nam tự làm nhà máy với phương châm tiết kiệm, sử dụng công nghệ rẻ nhất. Cũng có thuận lợi là chúng ta có nguồn dầu sạch, không lẫn tạp chất, hơn nữa lúc đó nguồn dầu của chúng ta còn nhiều, không cần công nghệ cao cấp” - ông Thoảng nói.
Theo đại diện của BSR, hiện Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đang được thiết kế, tính toán phương án mở rộng quy mô (nhà máy) lên gấp đôi. Dự kiến, đến tháng 8-2014, phương án mở rộng, nâng công suất nhà máy được thiết kế hoàn chỉnh sẽ trình Thủ tướng xem xét, quyết định. “Chúng tôi đã đàm phán với các đối tác nâng công suất nhà máy từ 6,5 triệu tấn lên 10 triệu tấn sản phẩm/năm. Việc nâng công suất nhà máy như thế bắt buộc lượng dầu thô nhập khẩu vào cũng sẽ tăng lên” - đại diện BSR cho biết.
Không tác động giá nhiên liệu trong nước
Ông Hồ Sỹ Thoảng cho biết việc nhập khẩu dầu thô từ nước ngoài là do Tổng Công ty Dầu Việt Nam mua bằng ngoại tệ và cung cấp cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất chế biến. Việc nhập khẩu này có lợi về giá so với mua dầu thô từ nguồn trong nước bởi nguồn dầu của Việt Nam được đánh giá cao, bán được giá trong khi nhập từ khu vực Trung cận Đông có giá rẻ hơn. “Doanh nghiệp được mua một phần dầu nước ngoài với giá thấp thì sẽ có lợi nhưng chủ yếu lợi nhuận được nộp vào ngân sách nhà nước” - ông Thoảng cho biết.
Theo chuyên gia kinh tế cao cấp - TS Lê Đăng Doanh, ngoài vấn đề chủ yếu được ghi nhận trong việc xuất dầu trong nước, nhập dầu nước ngoài về là thu lợi tài chính cho ngân sách thì cũng cần làm rõ phần lợi mà Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam được hưởng là bao nhiêu. “Một số nước trên thế giới cũng thực hiện xuất dầu thô nếu như được giá để tối đa hóa lợi nhuận của ngành dầu khí. Việc chúng ta đưa nguồn thu vào ngân sách thông qua khai thác tài nguyên trong trường hợp này cũng là hợp lý” - TS Doanh đặt vấn đề.
Theo ông, cũng cần phải xem xét nghiêm túc đến đóng góp của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. “Sản lượng cung ứng từ nhà máy này cho nhu cầu xăng dầu trong nước thấp, chỉ đạt 30%, giá xăng dầu trong nước vẫn bán theo giá thế giới nên đóng góp của nhà máy này không có tác dụng ổn định giá dầu trong nước” - ông Doanh nhìn nhận.
Còn theo đại diện Công ty BSR, hiện nay Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đang hoạt động hết 100% công suất, đáp ứng 30% nhu cầu xăng dầu trong nước. “Do giá xăng dầu trong nước phải phụ thuộc giá xăng dầu thế giới nên nếu có đáp ứng 100% nhu trong nước cũng không thể giảm giá xăng dầu vì giá xăng dầu phải phụ thuộc giá thế giới” - vị này khẳng định.
Giá xăng, dầu khó giảm
Ông Hồ Sỹ Thoảng cho rằng cơ chế quản lý giá xăng dầu phụ thuộc vào chính sách của từng quốc gia nên mới có chuyện giá xăng ở Việt Nam cao hơn ở Malaysia, Indonesia, Mỹ… Với Việt Nam, giá xăng dầu được cơ quan quản lý nhà nước điều hành; nếu thuế, phí đánh lên mặt hàng xăng dầu tiếp tục cao thì giá xăng dầu sẽ còn cao nữa.
TS Lê Đăng Doanh cũng cho rằng một trong những bất hợp lý của mặt hàng xăng dầu hiện nay là thuế, phí khá cao với mức hơn 32%.
Bình luận (0)