Đề xuất tăng lương tối thiểu 7,2% từ năm 2026
(NLĐO)- Bộ Tư pháp đang thẩm định Dự thảo Nghị định quy định mức lương tối thiểu do Bộ Nội vụ xây dựng.
Dự thảo quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng 7,2% so với mức hiện hành để áp dụng từ ngày 1-1-2026 (trùng với phương án Hội đồng tiền lương quốc gia thống nhất khuyến nghị Chính phủ tại báo cáo số 009/BC-HĐTLQG ngày 25-7-2025).

Bộ Nội vụ đề xuất tăng lương tối thiểu 7,2% từ năm 2026
Cụ thể, mức lương tối thiểu tháng theo 4 vùng như sau: Vùng I là 5.310.000 đồng/tháng, vùng II là 4.730.000 đồng/tháng, vùng III là 4.140.000 đồng/tháng, vùng IV là 3.700.000 đồng/tháng.
Mức lương tối thiểu nêu trên tăng từ 250.000 - 350.000 đồng (tương ứng tỉ lệ bình quân 7,2%) so với mức lương tối thiểu hiện hành. Mức điều chỉnh lương tối thiểu nêu trên cao hơn khoảng 0,6% so với mức sống tối thiểu của người lao động đến hết năm 2026 để cải thiện cho người lao động.
Cơ quan soạn thảo cho biết mức điều chỉnh này có sự chia sẻ, hài hòa lợi ích của người lao động và doanh nghiệp, vừa chú ý cải thiện đời sống cho người lao động, vừa chú ý đến việc bảo đảm duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định các mức lương tối thiểu giờ theo 4 vùng: Vùng I là 25.500 đồng/giờ, vùng II là 22.700 đồng/giờ, vùng III là 20.000 đồng/giờ, vùng IV là 17.800 đồng/giờ.
Mức lương tối thiểu giờ tiếp tục được xác định dựa trên phương pháp quy đổi tương đương từ mức lương tối thiểu tháng và thời gian làm việc tiêu chuẩn theo quy định của Bộ luật Lao động. Đây là phương pháp được các chuyên gia ILO khuyến nghị Việt Nam lựa chọn và đã sử dụng khi tính mức lương tối thiểu giờ từ năm 2022 đến nay.
Dự thảo nghị định cũng quy định địa bàn áp dụng được điều chỉnh để phù hợp với việc sắp xếp đơn vị hành chính thời gian qua.
Theo đó, dự thảo nghị định điều chỉnh từ vùng II lên vùng I đối với: Các phường Chu Văn An, Chí Linh, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Lê Đại Hành, Kinh Môn, Nguyễn Đại Năng, Trần Liễu, Bắc An Phụ, Phạm Sư Mạnh, Nhị Chiểu và các xã Nam An Phụ, Nam Sách, Thái Tân, Hợp Tiến, Trần Phú, An Phú, Cẩm Giang, Cẩm Giàng, Tuệ Tĩnh, Mao Điền, Kẻ Sặt, Bình Giang, Đường An, Thượng Hồng, Gia Lộc, Yết Kiêu, Gia Phúc, Trường Tân, Tứ Kỳ, Tân Kỳ, Đại Sơn, Chí Minh, Lạc Phượng, Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Phú Thái, Lai Khê, An Thành, Kim Thành thuộc TP Hải Phòng.
Một số địa bàn điều chỉnh từ vùng III lên vùng II đối với: các phường Hoàng Mai, phường Tân Minh thuộc tỉnh Nghệ An; các phường Đông Hà, Nam Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị; các phường Phan Rang, Đông Hải, Ninh Chử, Bảo An, Đô Vinh và các xã Thuận Bắc, Công Hải thuộc tỉnh Khánh Hòa; các xã Thanh Hà, Hà Tây, Hà Bắc, Hà Nam, Hà Đông, Ninh Giang, Vĩnh Lại, Khúc Thừa Dụ, Tân An, Hồng Châu, Thanh Miện, Bắc Thanh Miện, Nam Thanh Miện, Hải Hưng thuộc TP Hải Phòng.
Điều chỉnh từ vùng IV lên vùng III đối với: Phường Quảng Trị và các xã Đồng Lê, Vĩnh Linh, Cửa Tùng, Bến Quan, Cửa Việt, Gio Linh, Cam Lộ, Khe Sanh, Lao Bảo, Triệu Phong, Hướng Hiệp, Diên Sanh thuộc tỉnh Quảng Trị; các xã Ninh Sơn, Lâm Sơn, Anh Dũng, Mỹ Sơn, Thuận Nam, Cà Ná, Phước Hà thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Ngoài ra, dự thảo cũng điều chỉnh từ vùng I xuống vùng IV đối với các xã Kỳ Thượng, Lương Minh thuộc tỉnh Quảng Ninh. Điều chỉnh từ vùng III xuống vùng IV đối với các xã Thượng Trạch, Trường Sơn, Kim Ngân thuộc tỉnh Quảng Trị.
Bộ Nội vụ nêu rõ việc điều chỉnh vùng của các địa phương nêu trên nhằm tạo sự cân đối hợp lý về giá nhân công giữa các địa bàn lân cận, do các địa bàn trên có sự phát triển hơn về thị trường lao động, hình thành các khu, cụm công nghiệp, điều kiện cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể, giáp với các địa bàn khác có mức lương tối thiểu cao hơn.