Doanh nghiệp chú trọng phòng vệ thương mại

Các doanh nghiệp tư nhân đang tham gia tích cực việc phòng vệ thương mại, bảo vệ thương hiệu của chính mình

Ngày 25-9, tại Diễn đàn "Chủ động phòng vệ - Tăng tốc hội nhập - Thúc đẩy kinh tế tư nhân trong chuỗi cung ứng toàn cầu" do Cục Phòng vệ thương mại - Bộ Công Thương tổ chức ở TP HCM, ông Lương Hoàng Thái, Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại, nhấn mạnh vai trò then chốt của các biện pháp phòng vệ trong việc bảo vệ sản xuất trong nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (DN).

Phòng vệ thương mại là "lá chắn" quan trọng

Theo ông Thái, trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu biến động khó lường, những công cụ như thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp hay tự vệ thương mại tiếp tục là "lá chắn" quan trọng để tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, bảo vệ quyền lợi chính đáng của DN và người lao động.

Thống kê của Cục Phòng vệ thương mại cho thấy từ khi thành lập đến nay, cơ quan này đã tiến hành 48 vụ điều tra và 35 vụ rà soát các biện pháp đang áp dụng. Bộ Công Thương đã triển khai 36 biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu. Doanh thu hằng năm của các DN tham gia các vụ việc ước đạt gần 600.000 tỉ đồng, với hơn 56.000 lao động trực tiếp, đồng thời mang lại khoảng 1.600 tỉ đồng thu ngân sách từ thuế phòng vệ.

Ông Dương Duy Hưng, Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp - Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, cho rằng chưa bao giờ DN Việt đối diện yêu cầu cấp bách phải nâng cao vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu như hiện nay. Nếu không thay đổi, DN có nguy cơ bị loại khỏi "cuộc chơi".

Doanh nghiệp chú trọng phòng vệ thương mại- Ảnh 1.

Nhiều doanh nghiệp thép trong nước đã chủ động đề nghị cơ quan chức năng điều tra với thép nhập khẩu để bảo vệ sản xuất nội địa. Ảnh: PHẠM ĐÌNH

"Trước đây, lợi thế lao động dồi dào, giá rẻ từng là điểm mạnh nhưng trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, lợi thế này đã dần mất đi. Dù nhiều ngành hàng xuất khẩu của chúng ta như gạo, thủy sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều đứng trong nhóm lớn nhất thế giới nhưng đến nay chưa ngành nào làm chủ được toàn bộ chuỗi giá trị" - ông Hưng nêu thực trạng.

Theo ông Hưng, để vươn xa, DN tư nhân cần chuyển từ gia công sang tạo giá trị gia tăng cao, chú trọng đầu tư nghiên cứu - phát triển, nâng cao kỹ năng lao động, thay đổi tư duy sản xuất, tăng cường liên kết chuỗi và xây dựng thương hiệu. Quan trọng hơn, DN phải "cất lên tiếng nói của chính mình", phản ánh rõ khó khăn để cơ quan quản lý có cơ sở hoàn thiện chính sách.

Đại diện Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương cho biết trong các vụ việc phòng vệ thương mại, khu vực tư nhân luôn đóng vai trò chủ lực. 88% vụ việc có sự tham gia của DN tư nhân, chiếm 92,8% sản lượng hàng hóa và đạt doanh thu gần 595.000 tỉ đồng. Trong 79 DN tham gia yêu cầu điều tra, có tới 56 là DN tư nhân.

Ông Nguyễn Hữu Trường Hưng, Trưởng Phòng điều tra thiệt hại và tự vệ - Cục Phòng vệ thương mại, nhận định kinh tế tư nhân đang là động lực rất quan trọng của tăng trưởng, nhất là trong bối cảnh khó khăn hiện nay. Ông dẫn chứng thời gian qua, có tới 28/32 vụ khởi xướng điều tra do DN tư nhân đứng đơn, cho thấy lực lượng này đang tham gia tích cực vào phòng vệ thương mại.

Hoàn thiện quy định về xuất xứ

Cùng ngày, tại TP HCM, Cục Xuất nhập khẩu tiếp tục tổ chức hội thảo lấy ý kiến lần thứ hai về dự thảo Nghị định quy định tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước. Đây là bước hoàn thiện cuối cùng trước khi Bộ Công Thương trình Chính phủ ban hành nghị định chính thức.

Theo đại diện Bộ Công Thương, Việt Nam đã có hệ thống quy định về xuất xứ hàng hóa, song chủ yếu áp dụng cho xuất nhập khẩu, phục vụ mục tiêu hưởng ưu đãi thuế quan từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc quản lý ngoại thương. Trong khi đó, hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là sản phẩm sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, vẫn thiếu quy định cụ thể về thế nào mới được coi là "có xuất xứ Việt Nam".

Thực tế cho thấy một số DN chỉ tiến hành công đoạn gia công, lắp ráp đơn giản nhưng vẫn tự gắn nhãn "sản xuất tại Việt Nam" hoặc "sản phẩm của Việt Nam". Điều này không chỉ gây bức xúc trong dư luận mà còn đặt cơ quan quản lý vào tình thế khó xử, do chưa có cơ sở pháp lý để xử lý hành vi gian lận.

"Những năm qua, tình trạng gian lận thương mại qua nhãn mác ngày càng phổ biến, điển hình là hàng hóa nhập khẩu hoặc đặt gia công tại nước ngoài nhưng lại dán nhãn "Made in Vietnam" để đánh lừa người tiêu dùng, cạnh tranh không lành mạnh với DN nội địa" - lãnh đạo cơ quan này thông tin.

Do đó, dự thảo nghị định lần này đưa ra 3 nhóm tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam. Đó là hàng hóa có xuất xứ thuần túy tại Việt Nam; hàng hóa sản xuất tại Việt Nam từ nguyên liệu có xuất xứ trong nước; hàng hóa sử dụng nguyên liệu nhập khẩu nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng tại Việt Nam, làm thay đổi cơ bản tính chất hàng hóa.

Tùy vào quy trình sản xuất, DN có thể lựa chọn cách ghi nhãn phù hợp, như: "Sản xuất tại Việt Nam", "Chế tạo tại Việt Nam", "Nước sản xuất: Việt Nam", "Xuất xứ: Việt Nam" hoặc "Sản xuất bởi Việt Nam". Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi nhiều quốc gia cùng tham gia quá trình sản xuất một sản phẩm, cách ghi xuất xứ cũng ngày càng đa dạng. Bên cạnh các cụm từ truyền thống như "Sản phẩm của…", "Sản xuất tại…", còn xuất hiện thêm "Lắp ráp tại…" hay "Chế tạo bởi…". Việc bổ sung quy định mới được đánh giá là cần thiết để vừa minh bạch trong quản lý vừa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Giới chuyên gia nhận định việc sớm ban hành nghị định không chỉ ngăn chặn tình trạng gian lận nhãn mác mà còn củng cố niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng Việt. Quan trọng hơn, quy định rõ ràng về xuất xứ sẽ khẳng định uy tín hàng hóa trong nước, tạo nền tảng cho DN phát triển bền vững, từng bước tham gia sâu hơn chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo đại diện Cục Xuất nhập khẩu, nhiều DN sản xuất nội địa đang ở thế bất lợi khi cạnh tranh với hàng nhập khẩu gắn nhãn "Made in Vietnam" giả mạo. Nếu không có công cụ pháp lý đủ mạnh, tình trạng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của hàng Việt, làm suy yếu động lực phát triển của khu vực sản xuất trong nước. 

Không làm tăng giá

Ông Nguyễn Hữu Trường Hưng đưa nhiều ví dụ thực tế để chứng minh hiệu quả của công cụ phòng vệ thương mại.

Ngành mía đường từng rơi vào cảnh nông dân bỏ ruộng khi giá mía tại ruộng chỉ 600.000 - 700.000 đồng/tấn. Sau khi áp dụng biện pháp phòng vệ, giá tăng lên 1,3 triệu đồng/tấn, đem lại lợi ích cho cả nông dân lẫn DN.

Với mặt hàng phôi thép và thép dài, việc áp thuế khiến nhập khẩu giảm mạnh, giúp DN trong nước đủ sức cạnh tranh sòng phẳng với thép Trung Quốc, kể cả khi thuế được dỡ bỏ.

"Quan niệm cho rằng áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại làm tăng giá là chưa chính xác. Ngược lại, chính sự tham gia mạnh mẽ của sản xuất trong nước mới tạo ra cạnh tranh thực chất, giữ giá ổn định, mang lại lợi ích lâu dài cho cả DN lẫn người tiêu dùng" - ông Hưng nhấn mạnh.