THIẾU HỤT LAO ĐỘNG lành nghề (*): Đừng để khan hiếm mới đào tạo
Nhiều nơi tuyển mãi vẫn không đủ, trong khi hàng vạn lao động vẫn thất nghiệp hoặc làm việc trái ngành
Nhiều năm qua, bài toán mất cân đối cung - cầu lao động vẫn là thách thức lớn của thị trường việc làm Việt Nam. Ở nhiều ngành nghề, nhất là công nghệ, cơ khí, điện - điện tử, logistics, chăm sóc sức khỏe… doanh nghiệp (DN) "khát" lao động có tay nghề, trong khi lực lượng lao động phổ thông, chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỉ lệ cao.
Nâng cấp hệ thống dự báo
Theo Cục Thống kê - Bộ Tài chính, quý III/2025, tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo có bằng, chứng chỉ vẫn chiếm gần 66%. Điều này phản ánh rõ sự "lệch pha" giữa năng lực của người lao động (NLĐ) và nhu cầu tuyển dụng của DN. Hệ quả là nhiều nơi tuyển mãi không đủ, trong khi hàng vạn người vẫn thất nghiệp hoặc làm việc trái ngành, thu nhập thấp.
TS Huỳnh Anh Bình, Giám đốc Trung tâm Hướng nghiệp TP HCM, cho rằng mấu chốt nằm ở chỗ thị trường lao động của chúng ta chưa được điều tiết bằng thông tin và dự báo chính xác. Nếu không nắm được ngành nào đang cần, ngành nào sắp bão hòa thì dù đào tạo giỏi đến mấy cũng rất khó khớp cung - cầu.
Một trong những nguyên nhân lớn khiến cung - cầu lao động "lệch nhịp" là do hệ thống dự báo còn yếu, thiếu liên thông và cập nhật chậm. Ở nhiều địa phương, việc thống kê nhu cầu nhân lực vẫn chủ yếu bằng phiếu khảo sát định kỳ hoặc báo cáo hành chính, chưa phản ánh đúng biến động nhanh của thị trường.
Trong bối cảnh DN thay đổi mô hình sản xuất liên tục - đặc biệt khi tự động hóa, robot và trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng phổ biến - việc thiếu dữ liệu thời gian thực khiến các trường nghề, cơ sở đào tạo "mò mẫm trong bóng tối". Hệ quả là nhiều ngành "nóng" như kỹ thuật cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, logistics… chưa được đào tạo đủ, trong khi một số ngành học lại thừa nhân lực.

Cân đối cung - cầu lao động sẽ giúp doanh nghiệp có người làm việc hiệu quả. Ảnh: HUỲNH NHƯ
Theo Bộ Nội vụ, Việt Nam đang xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động và việc làm, kết nối từ trung ương tới địa phương. Cơ sở này sẽ tổng hợp thông tin từ sàn việc làm, mạng tuyển dụng, hồ sơ BHXH đến dữ liệu đăng ký kinh doanh, giúp phân tích được xu hướng nhân lực theo vùng, ngành và cấp độ kỹ năng.
Các chuyên gia cho rằng để hệ thống này phát huy hiệu quả, cần ứng dụng AI, phân tích dữ liệu lớn (Big Data) nhằm tự động phát hiện biến động cung - cầu, dự báo nhu cầu nhân lực 3 - 5 năm tới. Từ đó, cơ quan quản lý và các cơ sở đào tạo có thể kịp thời điều chỉnh chương trình, quy mô ngành học cho phù hợp.
Song song đó, các trung tâm dịch vụ việc làm cần được nâng cấp thành "trạm thông tin thị trường lao động số", nơi NLĐ có thể tra cứu xu hướng việc làm, mức lương trung bình, yêu cầu kỹ năng từng ngành nghề, còn DN có thể tiếp cận nhanh hồ sơ ứng viên. "Chúng ta không thể nói đến cân đối cung - cầu nếu thiếu một hệ thống thông tin thị trường hiện đại. Khi dữ liệu được minh bạch và dự báo kịp thời, cả người học, nhà trường lẫn DN đều có thể ra quyết định đúng hướng" - TS Bình nói.
Thay đổi cách làm
Không thể chờ đến khi thiếu mới đào tạo, cũng không thể đào tạo mà không biết thị trường cần gì. Giải pháp căn cơ, theo nhiều chuyên gia, là chuyển mạnh sang mô hình đào tạo theo nhu cầu thị trường - nơi DN được xem như "khách hàng" của nhà trường, còn sinh viên (SV), học viên là "sản phẩm" cần được bảo đảm chất lượng đầu ra.
Hiện nay, nhiều trường nghề, cao đẳng (CĐ) kỹ thuật tại TP HCM và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã chủ động hợp tác sâu với DN. Chẳng hạn, Trường CĐ Kỹ thuật Cao Thắng thường xuyên nhận được "đơn đặt hàng" từ các tập đoàn công nghệ. TS Lê Đình Kha, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết các DN công nghệ cao đều vận hành nhà máy thông minh, sử dụng robot và hệ thống điều khiển tự động.
Như vậy, lao động giản đơn sẽ bị cắt giảm, còn lao động kỹ thuật cao, có khả năng lập trình, phân tích dữ liệu, đọc bản vẽ kỹ thuật lại thiếu trầm trọng. "Nhà trường phải đổi mới chương trình và gắn kết DN để đào tạo kịp xu thế này" - TS Kha nói.
Mô hình hợp tác "đào tạo theo đặt hàng" cũng được Trường CĐ nghề Việt Nam - Singapore triển khai hiệu quả. Theo TS Trần Hùng Phong - Hiệu trưởng nhà trường, các SV được cấp học bổng toàn phần, học 50% thời lượng tại trường và 50% tại DN. "Đây là cách vừa giúp SV ra trường có việc làm ngay vừa giúp DN có nguồn nhân lực phù hợp, giảm thời gian đào tạo lại" - ông Phong nói.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỉ lệ học sinh chọn học nghề sau THCS mới chỉ đạt khoảng 35%. Điều này khiến nhiều học sinh "dồn" vào bậc phổ thông và đại học dẫn đến thừa cử nhân nhưng thiếu thợ lành nghề.
Để khắc phục, cần đẩy mạnh phân luồng học sinh sớm, nâng hình ảnh tích cực của giáo dục nghề nghiệp, giúp học sinh và phụ huynh hiểu rằng "học nghề là học để làm việc, để lập nghiệp", không phải lựa chọn kém giá trị. Nhiều nước phát triển như Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều có hệ thống đào tạo nghề gắn với DN - nơi học viên vừa học vừa làm và có thu nhập ổn định.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, NLĐ phải sẵn sàng đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng suốt đời. Không chỉ kỹ năng nghề mà còn cần kỹ năng mềm, kỹ năng ngoại ngữ, tư duy sáng tạo, kỹ năng số. Đó là chìa khóa giúp họ thích ứng với xu hướng tự động hóa, chuyển đổi số và thị trường lao động toàn cầu.
Hệ sinh thái nhân lực
Theo TS Lê Đình Kha, muốn khớp cung - cầu lao động, không thể chỉ dựa vào các chính sách tuyển dụng hay hỗ trợ việc làm ngắn hạn. Cần nhìn xa hơn - xây dựng một hệ sinh thái nhân lực, nơi mọi thành phần cùng tham gia: Nhà nước hoạch định và dự báo, DN chủ động đặt hàng, nhà trường đào tạo theo nhu cầu và NLĐ chủ động học tập suốt đời.
Cân đối cung - cầu lao động không chỉ giúp DN có người làm việc hiệu quả mà còn là nền tảng để Việt Nam nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh và bứt phá trong thời kỳ hội nhập.
(Còn tiếp)
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 3-11