Năm 2022, toàn bộ 6/6 chỉ tiêu của ngành NN-PTNT được Chính phủ giao đều đạt và vượt kế hoạch: Tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,36% là mức cao nhất trong nhiều năm gần đây (Chính phủ giao 2,5 - 2,8%); kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 53,22 tỉ USD (Chính phủ giao 50 tỷ USD), thặng dư thương mại đạt 8,5 tỉ USD, chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất siêu của toàn nền kinh tế; tỉ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới 73,06% (Chính phủ giao 73%) và 255 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (Chính phủ giao 235 đơn vị); số xã đạt tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới đạt 78% (Chính phủ giao 77%); tỉ lệ che phủ của rừng đạt 42,02%.
- Phóng viên: Năm 2022, vượt qua rất nhiều biến động của thị trường thế giới, xuất khẩu nông lâm thủy sản cán đích một cách ngoạn mục, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về kết quả này?
+ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan: Thay đổi một suy nghĩ, thay đổi một cuộc đời. Thay đổi một tiếp cận chúng ta sẽ thay đổi một hành trình. Tổng kết lại năm 2022, mặc dù rất nhiều khó khăn như dịch bệnh, đứt gãy cung cầu, chi phí logistics, chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao, tuy nhiên kết quả đến giờ này mặc dù chưa đạt như kỳ vọng của ngành, của doanh nghiệp, cũng như người nông dân, nhưng cũng là thành quả rất đáng tự hào.
Xuất khẩu thủy sản năm 2022 đạt 10,92 tỉ USD, tăng 22,9%, trong đó mặt hàng tôm đạt 4,33 tỉ USD
Vai trò trụ đỡ của ngành nông nghiệp
"Tự hào đó không phải nằm ở con số của ngành này ngành kia, những con số đó chỉ thể hiện những gì chúng ta nhìn thấy được. Nhưng có những tự hào chúng ta không nhìn thấy được, đó là sự đánh giá rất cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cũng như của xã hội về vai trò, vị thế của ngành nông nghiệp trong một bối cảnh bất định, dịch bệnh biến động đầy phức tạp. Hay nói cách khác là nó làm sâu sắc hơn vai trò trụ đỡ của ngành nông nghiệp, không chỉ đóng góp cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, mà còn đảm bảo các vấn đề xã hội. Điều này không thể hiện ra những con số"- Tư lệnh ngành nông nghiệp nói.
Ví dụ như đảm bảo an ninh lương thực. Hiện nay rất nhiều quốc gia đang khủng hoảng an ninh lương thực, rất nhiều quốc gia đang khủng hoảng về sản xuất nông nghiệp, thậm chí có những chuỗi ngành hàng của một số quốc gia bị đứt gãy, nhưng ngành nông nghiệp của chúng ta vẫn đứng vững, vừa đóng góp cho sự tăng trưởng nói chung, vừa đóng góp cho an sinh xã hội và vấn đề bao trùm là chúng ta chưa bao giờ bị khủng hoảng về lương thực, thực phẩm trong bối cảnh nhiều quốc gia đang tìm đến chúng ta trong nửa cuối năm 2022 để tìm kiếm sự hợp tác để đảm bảo an ninh lương thực.
Điều này để nói rằng sứ mạng của ngành nông nghiệp không chỉ giải quyết vấn đề tăng trưởng, vấn đề bao trùm cho hàng chục triệu nông dân ở nông thôn, hàng chục triệu lao động ở khu vực nông nghiệp, khu vực dịch vụ. Vai trò của nông nghiệp nằm trong một cấu trúc chung về kinh tế lẫn xã hội. Nhiều khi nếu chúng ta chỉ tiếp cận qua những con số tăng trưởng thì chúng ta không thấy được tác động của ngành với xã hội.
Thứ hai là chúng ta có thể thấy tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, đã bắt đầu bén rễ vào nhận thức xã hội vào người nông dân, vào doanh nghiệp. Nhiều diễn đàn đã tổ chức đi theo hướng đó.
Nghĩa là chúng ta thấy rằng không thể quay lại con đường sản xuất nông nghiệp lấy tiêu chí sản lượng để làm mục tiêu phấn đấu nữa, mà bắt đầu đã có rất nhiều nghiên cứu của các chuyên gia, nhà khoa học và nhiều hành động của của các hiệp hội, ngành hàng, bắt đầu tư duy làm sao tạo ra giá trị gia tăng theo xu thế kinh tế nông nghiệp.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cùng lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk thăm vườn sầu riêng trên địa bàn huyện Krông Pắc. Ảnh: THUẬN NGUYỄN
Càng ngày càng thấy rõ vấn đề định vị rõ thị trường có vai trò quan trọng hơn sản xuất, bởi sản xuất mà không có thị trường thì sản xuất sẽ bị tắc nghẽn. Do đó, vai trò kiến tạo của nền nông nghiệp và kiến tạo không gian thị trường rất quan trọng và thể hiện rất rõ trong năm 2022.
Chúng ta đã mở cửa rất nhiều thị trường, mở cửa cho rất nhiều loại nông sản của Việt Nam tiếp cận thị trường khó tính để đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm. Quan trọng hơn là chúng ta chứng minh được một điều là nông sản của chúng ta về mặt chất lượng có thể đảm bảo đến các thị trường khó tính nhất.
Đó là những tín hiệu cho thấy, bắt đầu từ Nghị quyết 19 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn hay chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn đã bắt đầu lan tỏa ra xã hội. Nhận thức của xã hội về vai trò của nông nghiệp hay tư duy phát triển nông nghiệp sang một tư duy mới, mô hình mới thích hợp tăng trưởng tương đương giá trị sang tăng trưởng tích hợp đa giá trị. Những mô hình nông nghiệp mới như lúa - tôm, lúa - rươi, mô hình du lịch nông nghiệp tạo ra những sản phẩm OCOP (mỗi xã một sản phẩm)… tạo ra một sinh khí mới thay vì chúng ta chỉ đi theo một con đường sản lượng như trước kia.
Do đó, tôi đánh giá rất cao vai trò của hàng chục triệu hộ nông dân chúng ta, mặc dù rất khó khăn khi nguyên vật liệu đầu vào, giá cả đầu ra không như mong muốn nhưng có nhiều mô hình của bà con nông dân ở ĐBSCL, Tây Nguyên, đồng bằng Bắc Bộ, miền núi phía Bắc đã tìm những mô hình có thể có giá trị như một gợi ý cho Bộ NN-PTNT và chúng ta không chỉ lo cho một nông nghiệp mà chúng ta hay gọi là quy mô hàng hóa lớn, mà chúng ta chăm lo cho những nông nghiệp quy mô nhỏ nhưng mang lại giá trị tri thức bản địa lớn.
Ví dụ, lúa bậc thang của đồng bào vùng trung du hay miền núi làm sao so sánh được với đồng bằng sông Hồng và càng không thể so được với ĐBSCL nhưng đồng bào miền núi biết phát huy giá trị đặc trưng của vùng núi, như kể một câu chuyện để làm du lịch nông thôn. Để từ đó lãnh đạo địa phương biết chăm chút hơn từng sản phẩm nông nghiệp dù quy mô nhỏ nhưng giá trị sẽ cao nếu chúng ta tiếp tục hành động, đổi mới như thời gian vừa qua.
Đó là giá trị của sự liên kết giữa nhà nước, thị trường và xã hội, giữa nhà nước và DN nông nghiệp với bà con nông dân, hợp tác xã, đó nhà những giá trị bao trùm trong năm 2022.
- Tư duy của doanh nghiệp cũng đang thay đổi khi họ bắt đầu chú trọng nghiên cứu thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa, đây rõ ràng là một tín hiệu vui. Vậy liệu nó có được lan tỏa trong thời gian tới?
+ Tôi nghĩ rằng xu thế này không đảo ngược và rất may mắn nó sẽ không đảo ngược được, vì các doanh nghiệp đã biết hướng đến các thị trường cao cấp hơn để tạo lợi nhuận cao hơn cho cả doanh nghiệp và người nông dân. Tư duy thị trường đã bắt đầu bén rễ hay nói cách khác là tư duy sản xuất ngày xưa là làm ra những gì mình có thể làm, còn tư duy thị trường là mình làm ra những gì thị trường yêu cầu.
Những DN xuất khẩu gạo chất lượng cao sang thị trường châu Âu hay thị trường Nhật là minh chứng rằng chúng ta đã hướng vào vấn đề chất lượng, hướng về yêu cầu của từng loại thị trường khác nhau. Thị trường châu Âu khác, thị trường Nhật Bản khác, thị trường Mỹ khác… Các DN cùng Bộ NN-PTNT và Bộ Công Thương, trong thời gian vừa qua cũng liên tục tổ chức nhiều diễn đàn để các doanh nghiệp thấy rằng mỗi loại thị trường có yêu cầu khác nhau, chúng ta không thể "mặc đồng phục", không đồng nhất tất cả các sản phẩm mà phải tạo ra nhiều phân khúc thị trường cả trong nước lẫn nước ngoài.
Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan tham quan và thưởng thức sản phẩm nông nghiệp OCOP
Câu chuyện gạo sang Liên minh châu Âu (EU) dù ở giai đoạn này quy mô chưa lớn, sản lượng chưa nhiều, nhưng rõ ràng là tín hiệu cho thấy chúng ta đã thay đổi và khi thay đổi chúng ta đã tạo ra được giá trị gia tăng mới cao hơn. Điều này dẫn dắt lại người trồng lúa đảm bảo được tiêu chuẩn ngay từ khi chọn giống, ngay từ khi ứng dụng các quy trình canh tác, chuẩn hóa từng chất lượng nông sản, trong đó có hạt gạo cho từng thị trường. Hay nói cách khác cô đọng hơn, là DN đã dần dần từ bỏ tư duy "buôn chuyến" mang tính chất thương vụ mà định hình thị trường lâu dài. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể liên kết với người nông dân một cách ổn định, lâu dài. Khác trước đây, khi có đơn hàng mới bắt đầu thu mua, nay rất nhiều doanh nghiệp như Tân Long, Trung An và nhiều DN thấy rằng cần xây dựng chiến lược thị trường lâu dài, từ chiến lược thị trường lâu dài này sẽ liên kết với nông dân, hợp tác xã trong từng vùng nguyên liệu để tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định, đáp ứng được chuẩn mực, yêu cầu của thị trường.
Vì vậy, tư duy đường dài của DN sẽ đưa đến tư duy đường dài cho người nông dân. Hiện nay, nông dân đang dần ổn định từng vùng nguyên liệu, ví dụ tại tỉnh An Giang đã có những doanh nghiệp như Tân Long đã định hình vùng nguyên liệu lúa cho từng thị trường, thì trường nào cần loại lúa gì, phẩm cấp ra sao… tức là đã dần hình thành một cách tự nhiên sự liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, hình thành những vùng nguyên liệu ổn định lâu dài, bền vững. Tôi nghĩ đó là những cái được của ngành nông nghiệp, thoát đi "lời nguyền" nông dân tư duy mùa vụ, doanh nghiệp tư duy thương vụ. Bây giờ không có khái niệm "mùa vụ" hay "thương vụ", không nghĩ ngắn mà phải nghĩ dài, không nghĩ cho 1 bên mà phải nghĩ cho cả 2 bên, tức là cho cả doanh nghiệp và người nông dân.
- Đâu là những khó khăn, thách thức trong năm 2023, thưa Bộ trưởng?
+ Tôi nghĩ rằng khó khăn và thách thức luôn bám theo nền nông nghiệp, khi đây là ngành rất nhạy cảm, bởi khi đã xuống giống rồi thì 3 tháng sau đối với hạt gạo, 6 tháng đối với cây trồng, cả năm đối với vật nuôi, khi đã xuống giống rồi thì đến mùa thu hoạch giá lên hay xuống cũng phải lệ thuộc, khi "được mùa rớt giá".
Bộ trưởng NN-PTNT Lê Minh Hoan: Để thoát khỏi "lời nguyền" manh mún, nhỏ lẻ, tự phát, chỉ có cách chúng ta phải tổ chức lại sản xuất. Đó là mệnh lệnh.
Để thoát khỏi "lời nguyền" này chỉ có cách chúng ta phải tổ chức lại sản xuất. Đó là mệnh lệnh.
Để vượt qua lời nguyền thì phải vượt qua tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, tự phát và phải kết nối thành chuỗi, trong chuỗi này có sự hợp tác của những người hợp tác với nhau, trong chuỗi đó có sự hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp, hình thành tư duy hợp tác và tư duy liên kết. Nông dân là người bắt đầu quy trình sản xuất và là người bắt đầu chuỗi này.
Nếu chúng ta không hình thành được chuỗi tổ chức ngành hàng sẽ không có thông tin và không thể chuyển tải thông tin về thị trường, mùa vụ, sản lượng, quy chuẩn thị trường đến người sản xuất thì nười sản xuất chỉ sản xuất theo thói quen hàng ngày, theo kiểu "đánh cược" vì không có thông tin. 3 tháng nữa thị trường lúa gạo sẽ như thế nào? Làm sao để thông tin đến từng hộ Thông tin này phải đến được các hộ.
Tôi hay nói với các chính quyền địa phương, không có cách nào khác người nông dân phải hợp với nhau, trong không gian gì đó, như Hội quán nông dân ở Đồng Tháp, Nông hội ở Giai Lai, Cà phê khuyến nông của An Giang, Ngôi nhà Trí tuệ của Hà Tĩnh… Trong không gian này, người dân được các doanh nghiệp, chuyên gia, nhà khoa học trao đổi, chia sẻ thông tin. Từ đó dần hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác.
Không còn con đường nào khác, không nhìn kết quả ở con số tăng trưởng mà phải nhìn lại cách chúng ta tổ chức, vận hành một ngành hàng. Cái đó quyết định sự chống chịu, khả năng vượt qua các cú sốc của thị trường. Bà con nông dân được tiếp cận các vấn đề rủi ro thì khả năng vượt qua rủi ro cao hơn. Ví dụ, khi ta xuất khẩu chính ngạch sầu riêng, thì giá sầu riêng tăng lên.
Hiện nay có hiện tượng bà con nông dân đốn xoài để trồng sầu riêng. Đây là vấn đề lớn của ngành nông nghiệp, chúng ta quản lý, vận hành một nền kinh tế nông nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta có quyền quyết định bỏ không trồng sầu riêng nữa, thì làm sao chúng ta thông tin được nhiều nhất vấn đề quy mô thị trường. Vấn đề là đừng chuyển rủi ro này sang một rủi ro khác.
Khi chúng ta mở rộng không gian kinh tế hợp tác, một ngành hàng sầu riêng, xoài, lúa gạo… có quy mô lớn hơn để chủ động được trong chế biến, bảo quản, tạo ra nhiều sản phẩm. Khi thị trường bị đứt gãy, Nhà nước sẽ hỗ trợ qua một không gian chung chứ không thể có đủ nguồn lực để hỗ trợ cho từng hộ.
Hiện nay, Bộ NN-PTNT đang làm chương trình cho từng vùng nguyên liệu lớn cùng với các doanh nghiệp để xây dựng các nhà kho bảo quản, vì chúng ta không thể chắc chắn mỗi loại nông sản khi sản xuất ra đều sẽ có thị trường, sẽ tiêu thụ được ngay. Thị trường không chỉ 1 người bán với 1 người mua, mà là trăm người bán, vạn người mua. Ta xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc thì Thái Lan, Malaysia cũng xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc, chúng ta xuất khẩu gạo thì Thái Lan, Campuchia, Ấn Độ… cũng xuất khẩu gạo. Chúng ta rất khó tiên lượng, minh định được tất cả sản lượng của thế giới, nên chỉ làm tốt nhất được vấn đề thị trường, phần còn lại là phải chủ động ứng phó với sự thay đổi của thị trường bằng sự hỗ trợ của Nhà nước.
Các chuyên gia quốc tế cũng đã dự báo năm 2023 có thể còn khó khăn hơn nữa. Lạm phát toàn cầu bắt đầu thẩm thấu, lan tỏa đến các quốc gia có độ trễ lớn hơn. Khi thế giới thay đổi thì chúng ta cần phải có chiến lược để chủ động thích ứng.
Tuy nhiên, những khó khăn này không lớn bằng các các quy chuẩn thị trường ngày càng khắt khe hơn. Thí dụ các chuẩn mực của thị trường EU hay là thị trường Mỹ, Nhật Bản… bắt đầu người ta đã truy xuất nguồn gốc.
Những nông sản hay các sản phẩm nông nghiệp được tạo ra người ta không chỉ tiếp nhận bằng giá cả, bằng chất lượng mà còn bởi các quy trình canh tác có bị tác động bởi môi trường thiên nhiên không, có tác động tới đa dạng sinh học hay không, có tác động bởi hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu hay không, kể cả trong lĩnh vực trồng trọt, thủy sản… Vấn đề như khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) là một minh chứng, không chỉ là độ ngon của con tôm, con mực, cá ngừ, mà còn các vấn đề khác như các sản phẩm này được đánh bắt như thế nào, có vi phạm vấn đề luật pháp quốc tế đối với môi trường hay không.
Những sản phẩm nông nghiệp khác cũng vậy, có được trồng ở những khu vực tác động đến thiên nhiên hay không, hoặc trồng ở những vùng đất là các khu rừng bị tàn phá hay không? Đối với cà phê và hạt điều, người ta sẽ truy xuất nguồn gốc trồng ở đâu, có phải do tàn phá rừng để lấy tài nguyên đất đai để canh tác nông nghiệp hay không.
Tôi muốn nói rằng đó là sức ép phải thay đổi. Nhưng trước sức ép thay đổi đó, nếu chủ động thay đổi sẽ đỡ rủi ro hơn và biết đâu lại là cơ hội để xây dựng hình ảnh một nền nông nghiệp trách nhiệm, bền vững. Như Thủ tướng Chính phủ dã nói, người ta bắt mình thay đổi và những thay đổi này không phải cho người ta, mà cho chính bản thân chúng ta.
- Chúng ta thường quan niệm thị trường Trung Quốc là thị trường dễ tính, chúng ta thường hay buôn chuyến. Bây giờ, các nghị định thư xuất khẩu ký với Trung Quốc đòi hỏi tiêu chuẩn, chất lượng khắt khe hơn. Đây vừa là thách thức, nhưng cũng là cơ hội cho những người sản xuất nông nghiệp Việt Nam, thưa Bộ trưởng?
+ Về thị trường Trung Quốc, bà con nông dân đã biết, trước đây chỉ cách nhau con sông, hàng qua thuyền đẩy sang bên kia là thu tiền về, trước đây là thị trường dễ tính, phẩm cấp hàng hóa nào cũng có người tiêu dùng. Đã có giai đoạn chúng ta lệch lạc đi theo chiều hướng đó, tạo thói quen sản xuất hàng hóa cho một thị trường dễ tính.
Chúng ta không thể quay lại con đường sản xuất nông nghiệp lấy tiêu chí sản lượng để làm mục tiêu phấn đấu nữa
Nhưng nay thị trường Trung Quốc đã rất "khó tính". Họ khó tính vì thành phần trung lưu của Trung Quốc đã rất lớn với 500 triệu người, tức là nhu cầu về hàng hóa chất lượng cao rất lớn, yêu cầu chất lượng hàng hóa họ áp dụng với tất cả các nước chứ không riêng gì Việt Nam. Hàng rào kỹ thuật họ tạo nên là để bảo vệ sức khỏe người dân của họ và đây chính là cơ hội để chúng ta thay đổi, tìm kiếm thị trường ở phẩm cấp cao hơn.
Có thể ban đầu có khó khăn, nhưng về lâu dài sẽ tốt hơn, xuất khẩu chuyển sang chính ngạch có sự hỗ trợ của Nhà nước hai bên, của các cơ quan 2 nước để chúng ta thoát khỏi xuất khẩu tiểu ngạch quá nhiều rủi ro, nhiều khi chi phí chính thức thấp nhưng chi phí phi chính thức ở các cửa khẩu cũng là 1 vấn đề đối với các chuyến hàng mà tôi từng nghe bà con phản ánh như vậy.
- Giải pháp thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ trong năm 2023 là gì, thưa Bộ trưởng?
+ Tôi cũng trăn trở khi thực hiện các mục tiêu Nghị quyết về 6 vùng. Mỗi vùng có một thế mạnh riêng, vậy phải đi theo hướng nào? Ngoài nghị quyết chung về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thì sinh thái vùng ĐBSCL là quy mô hàng hóa; vùng trung du và miền núi phía Bắc là vùng có thể từ những cái quy mô nhỏ nhưng biết kết hợp bản sắc của đồng bào các dân tộc thì chúng ta có thể tạo ra được những đặc sản của địa phương ở từng tỉnh, từng huyện, xã…
Tây Nguyên với các câu chuyện về cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như hồ tiêu, hạt điều, cây gia vị…; vùng đồng bằng Bắc Bộ là hệ sinh thái gần các viện, trường của bộ, quy mô không quá lớn như ĐBSCL nhưng cũng không quá nhỏ như vùng trung du phía Bắc, mà vừa đủ để kích hoạt nông nghiệp công nghệ cao ở đây. Hơn nữa, vùng này gần với các viện, trường của ngành nông nghiệp, các doanh nghiệp cũng ở trên địa bàn này sẽ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp ở vùng này.
Chúng ta phải xác định rằng ngành nông nghiệp sẽ luôn gặp khó khăn, thách thức. Khi thế giới thay đổi thì chúng ta cần phải có kế hoạch để chủ động thích ứng
Tóm lại, muốn biến những cái chung thành cái riêng thì hiện nay Bộ NN-PTNT đang có chương trình bắt đầu sẽ làm chương trình hành động cho từng vùng nhưng cần có chiến lược, đề án quy hoạch nằm ở tầng cao nhưng không chuyển xuống tầng thấp để thực hiện thì sẽ thất bại, mà cần sự liên kết của các địa phương trong vùng sinh thái và chuyển hóa hết những chiến lược chung của từng vùng, Bộ NN-PTNT cùng với các bộ khác sẽ hỗ trợ cho ngành nông nghiệp thì sẽ chuyển hóa đến từng địa phương một.
Chúng ta phải xác định rằng ngành nông nghiệp sẽ luôn gặp khó khăn, thách thức. Khi thế giới thay đổi thì chúng ta cần phải có kế hoạch để chủ động thích ứng. Tuy nhiên, những khó khăn này không bằng các quy chuẩn thị trường ngày càng khắt khe hơn.
Những nông sản hay các sản phẩm nông nghiệp được tạo ra giờ thị trường không chỉ tiếp nhận bằng giá cả, bằng chất lượng mà còn quan tâm trong sản xuất có bị tác động tới môi trường thiên nhiên, đa dạng sinh học, hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu...
Như cà phê, hạt điều có phải được trồng do tàn phá rừng để canh tác. Hay chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) cũng là một minh chứng thị trường không chỉ quan tâm độ ngon của hải sản mà còn các vấn đề như đánh bắt như thế nào, có vi phạm luật pháp quốc tế hay không?
Đó là sức ép đòi hỏi ngành nông nghiệp phải thay đổi. Đứng trước sức ép thay đổi đó, nếu chủ động thay đổi sẽ đỡ rủi ro hơn và cơ hội để xây dựng hình ảnh nền nông nghiệp Việt Nam trách nhiệm, bền vững. Như một thông điệp mà tôi hay đưa ra "mọi thay đổi đều khó khăn, nhưng nếu không thay đổi còn khó khăn hơn nữa". Biết đâu trong thay đổi này chúng ta tạo ra một hình ảnh mới, giá trị mới, thương hiệu mới, tạo ra nhiều việc làm mới…
Việt Nam đã có những cam kết tại COP 26 vừa đảm bảo tăng trưởng sản xuất vừa bảo vệ được môi trường; xây dựng nền nông nghiệp trách nhiệm, bền vững, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tham gia vào hệ thống cung ứng lương thực, thực phẩm toàn cầu. Những cam kết này phải được chuyển hóa bằng những hành động cụ thể, bằng trách nhiệm của người sản xuất, nông dân, ngư dân và doanh nghiệp.
Tôi hoàn toàn tin tưởng chúng ta có "dư địa" để có thể chuyển đổi. Từ trước đến nay chúng ta chỉ xuất khẩu thô, chúng ta còn nhiều dư địa để bảo quản, chế biến sâu. Vấn đề là doanh nghiệp phải dấn thân hơn nữa. Chúng tôi đang trình Chính phủ những chính sách hỗ trợ để doanh nghiệp mạnh dạn thay đổi, thay vì các doanh nghiệp chỉ mua đi bán lại.
Bên cạnh đó, hiện nay việc làm ở nông thôn là vấn đề quan trọng mà việc sắp xếp lại sản xuất sẽ tạo ra rất nhiều việc làm cho nông thôn. Năm 2023 phải đi sâu vào kinh tế nông thôn, tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Muốn vậy hình thái hoạt động của hợp tác xã, sản phẩm OCOP, du lịch nông nghiệp... phải khác đi.
Quan trọng là trong những con số tăng trưởng vừa qua chúng ta chưa đong đếm được bao nhiêu việc làm, tăng trưởng phải gắn với việc làm. Chúng ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì máy móc thay con người rất nhiều. Ngày xưa cần nhiều người ngoài đồng, nhưng nay chỉ cần bấm điện thoại cũng tưới tiêu được, vậy thì làm sao giải quyết được vấn đề việc làm trong nông nghiệp? Chỉ có 2 cách: chúng ta chuyển qua công nghiệp - dịch vụ đi làm cho các nhà máy và một phần phải tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn bằng kinh tế nông nghiệp và kinh tế phi nông nghiệp, những dịch vụ ở nông thôn. Đó là những vấn đề mà Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 đang hướng tới.
- Xin cảm ơn Bộ trưởng.
VĂN DUẨN thực hiện
Bình luận (0)