Đáp chuyến bay từ Hà Nội về đến TPHCM đã hơn 22 giờ nhưng sáng hôm sau, bác sĩ Bạch Văn Cam đã có mặt tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 để giao ban, xử lý những ca cấp cứu nguy hiểm. Bằng chứng nhận danh hiệu “Thầy thuốc Nhân dân” do Chủ tịch nước trao tặng mà ông vừa vinh dự đón nhận tại Hà Nội được đặt trên bàn làm việc, chưa kịp treo lên. Nhiều đồng nghiệp, học trò chờ ông để được chúc mừng. Ông đành gác lại, dành thời gian cho bệnh nhi. “Tính mạng con người mới là quý nhất. Chỉ trễ vài phút, sẽ khó cứu bệnh nhi thoát khỏi những cơn nguy kịch”- ông nói.
Với tâm huyết và tài năng, bác sĩ - Thầy thuốc Nhân dân Bạch Văn Cam đã đem lại cuộc sống cho hàng vạn bệnh nhi
Tâm nguyện với nghề y
Trong chiếc blouse trắng, bác sĩ Bạch Văn Cam bước vào phòng chăm sóc đặc biệt của Khoa Hồi sức Cấp cứu. Tiếng trẻ con khóc, la thét vang lên inh ỏi. Ân cần, ông đến từng giường bệnh. Khi được ông vỗ nhè nhẹ vào lưng, những đứa bé đang khóc thét nằm im, nhoẻn miệng cười. Đưa chiếc ống nghe vào người bé, ông nhẹ nhàng thăm khám. Chiếc blouse trắng của ông thấp thoáng bên từng giường bệnh.
Bác sĩ Bạch Văn Cam quan niệm: “Đã theo ngành y, không chỉ gắn bó, yêu thương bệnh nhân là đủ mà còn phải biết áp dụng phương pháp mới giúp bệnh nhân bớt đau đớn, thoát khỏi cái chết. Muốn thế, mình phải đi trước, đón đầu, áp dụng kỹ thuật thích hợp ít tốn kém, hiệu quả cao, dễ chuyển giao cho các bệnh viện”.
Ông sinh ra tại huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Lớn lên ở vùng quê nghèo, thấy cảnh nhiều người dân bị bệnh mà không có tiền để đến bệnh viện điều trị khiến ông không khỏi chạnh lòng. Nhưng lý do đưa ông đến với nghề y cũng chính là do nỗi đau mất mát trong gia đình mình. “Đó là lúc em út của tôi bị bệnh viêm phổi gây tràn dịch. Dù gia đình đã hết sức chạy chữa nhưng cũng không giữ được mạng sống”. Trước cái chết của người em, ông quyết tâm theo học ngành y với mong muốn chữa bệnh cho bà con nghèo nơi quê hương mình.
Năm 1974, ông tốt nghiệp và trở thành bác sĩ nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Ông chọn Khoa Nhi không chỉ bởi lòng yêu trẻ mà còn vì một lý do khác. Ông cho rằng nếu được chẩn đoán, điều trị đúng cách, kịp thời, bệnh nhi sẽ bình phục và bệnh không để lại di chứng về sau. Đó cũng là lý do ông xin về tuyến đầu là Khoa Hồi sức Cấp cứu, gắn bó đời mình để giành lại từng mạng sống cho trẻ em trước cơn nguy kịch.
Điều kỳ diệu từ tấm lòng yêu trẻ
Cách đây hơn 20 năm, bệnh viêm ruột hoại tử trở thành đại dịch với các triệu chứng đau bụng, tiêu chảy ra máu và 90% trẻ em nhập viện phải tử vong. Nhìn thấy cảnh những em bé nhập viện còn vô tư nói “mai con hết bệnh mẹ mua cho con cây bút chì, đồ chơi nhé”, ông nói “tôi muốn đứt ruột vì chúng đâu biết rằng ngày mai chúng không còn sống. Trẻ nuôi hy vọng rất nhiều tại sao mình không cứu được”.
Ước nguyện giành lại sự sống cho trẻ em bừng lên trong ông. Trăn trở mãi, ông nghĩ ra rằng: Khi trẻ tiêu chảy phải truyền dịch nhanh hơn và nhiều. Phác đồ điều trị bằng cách đo áp lực tĩnh mạch trung ương, tăng tốc độ truyền dịch gấp 3 lần được ông xây dựng. Và điều kỳ diệu đã xảy ra, mạch trẻ dần hồi phục, tỉ lệ tử vong ở trẻ từ 90% giảm xuống chỉ còn 40%.
Năm 1987, bệnh sốt xuất huyết trở thành đại dịch. Bấy giờ, bệnh viện là nơi tiếp nhận hàng loạt bệnh nhi từ các tuyến dưới chuyển đến với tình trạng hôn mê, khó thở, suy hô hấp. Nhìn nhiều bệnh nhi đến với bệnh viện trong tình trạng nguy cấp, không thể cứu sống, ông rất đau lòng, quyết tìm lời giải. Sau những ca cấp cứu không thành, ông nghiệm ra nguyên tắc: Khi bệnh nhân đã sốc, phải làm sao đo được lượng dịch trong cơ thể để từ đó truyền dịch cho phù hợp. Nhưng với bệnh nhi bị xuất huyết, nếu đâm kim vào tĩnh mạch dưới xương đòn thì phải đè cổ, gây tình trạng nghẹt thở, không cầm được máu.
Một sáng kiến của ông là đo áp lực tĩnh mạch trung ương ở vị trí khuỷu tay. Với sáng kiến này, nhiều bệnh nhi đã được truyền dịch kịp thời. Thành công đầu tiên được ông chuyển giao cho các bệnh viện ngoài tỉnh lúc bấy giờ như Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận...
Cũng trong quá trình điều trị bệnh sốt xuất huyết, ông nhận thấy có nhiều bệnh nhi suy hô hấp gây tràn dịch màng phổi dẫn đến tử vong. “Trước đây, tôi đã từng bảo vệ đề tài Thở áp lực dương qua mũi cho bệnh nhân viêm phổi rất thành công. Sao không ứng dụng phương pháp ấy cho người bệnh sốt xuất huyết?”. Ông âm thầm thử nghiệm. Năm 2002, bệnh nhi đầu tiên được cứu sống theo phương pháp này. Phương pháp này cũng đã được Tạp chí Sức khỏe Trẻ em thế giới công nhận là phương pháp tối ưu trong việc điều trị dành cho bệnh nhân sốt xuất huyết.
Quan tâm đào tạo thế hệ trẻ
|
Bình luận (0)