Công thức để tính ED= 2/3ALI (tỉ lệ người lớn biết chữ) + 1/3GER (tỉ lệ học sinh từ tiểu học đến đại học)
Năm 1999 chỉ số phát triển con người của Việt
Đánh giá về ANGD là vấn đề hết sức nhạy cảm. Mỗi nước có quan niệm riêng. UNDP cũng chưa có một tiêu chí chung nào để đánh giá về ANGD. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì có ba tiêu chí chung nhất để đánh giá: chỉ số về phát triển giáo dục (chỉ số ED), chỉ số về đạo đức xã hội (chỉ số SE), và hệ số về sự phù hợp giữa giáo dục đào tạo với nhu cầu của xã hội.
Chất lượng giáo dục xuống thấp
Những năm gần đây, Việt
Năm |
1997 |
1999 |
Chỉ số giáo dục |
0.82 |
0.84 |
Chỉ số GDP |
0.47 |
0.49 |
Nhìn vào số liệu trên có thể nhầm tưởng rằng ngành giáo dục - đào tạo của chúng ta đang phát triển mạnh mẽ; và như vậy tiền bạc mà nhân dân giao phó cho ngành giáo dục đang được chi tiêu một cách đúng hướng. Thực ra không phải hoàn toàn như vậy. Bởi chất lượng giáo dục ngày càng đi xuống. Thống kê của Bộ GD-ĐT cho thấy kỳ thi tuyển sinh đại học& cao đẳng năm 2002, cả nước có 823.584 thí sinh dự thi thì có đến 713.804 thí sinh có tổng số điểm ba môn thi dưới mức trung bình là 15 điểm, trong đó có 105.928 thí sinh có tổng số điểm cả ba môn dưới 3 điểm, 125 thí sinh có điểm thi cả ba môn là 0. Nếu tuyển số thí sinh có điểm thi từ cao xuống cho đủ chỉ tiêu năm 2002 của Nhà nước giao là 168.000 sinh viên (SV) thì mức điểm tối thiểu sẽ là 13, trung bình mỗi môn 4.33 điểm. Phải chăng tương lai đất nước sẽ được những SV có điểm thi tuyển sinh dưới mức trung bình này gánh vác?
Lại đổ tội
Lý giải cho tình trạng này, một quan chức giáo dục đã đổ tội cho các lò luyện thi dạy tủ, dạy lệch. Chết thật! đây là sản phẩm của ai, ai góp phần đẻ ra chúng, ai là những người đứng trên bục giảng của các lò luyện thi đó, không phải là những người đang được ngành giáo dục quản lý và trả lương hay sao?
Dạy thêm, học thêm tràn lan, lò luyện thi mọc như nấm, đó là biểu hiện của một chính sách giáo dục khập khễnh, quản lý giáo dục non kém, là hệ quả của một đường lối giáo dục không phù hợp.
Như vậy, tiêu chí thứ nhất để đánh giá ANGD đã có vấn đề, không được phù hợp như nó phải có. Phát triển về chất không nhịp nhàng cùng phát triển về lượng.
Nhìn từ góc độ giáo dục đào tạo với nhu cầu xã hội
Sự phù hợp giữa giáo dục - đào tạo với nhu cầu của xã hội là thước đo sự phát triển bền vững của một đất nước, nhằm bảo đảm rằng sản phẩm giáo dục - đào tạo được xã hội chấp nhận và sử dụng tối đa, không thiếu để rồi gây ra xáo trộn hoạt động kinh tế – xã hội, cũng không thừa gây lãng phí tài nguyên quốc gia.
Thông thường để đánh giá chỉ tiêu này, ta dùng hệ số giữa số SV tốt nghiệp có việc làm so với tổng số SV ra trường. Cũng theo Bộ GD-ĐT, năm 1999 có 78% SV có việc làm sau khi tốt nghiệp, năm 2001 có 94,60%. Đây là kết quả quá khả quan nhưng chưa phản ánh đúng thực trạng. Vì chỉ có 40% số SV được hỏi có thư trả lời, và theo tâm lý thì chỉ có các SV đang có việc làm mới sẵn lòng trả lời thực sự. Như vậy nếu toàn bộ số SV được khảo sát gửi kết quả về thì chắc chắn con số này thấp hơn nhiều.
Như vậy, có thể khẳng định rằng không quá 80% SV của chúng ta có việc làm sau khi tốt nghiệp, vậy hơn 20% không có việc làm có thể do đang học tiếp ở bậc cao hơn, do chưa muốn đi làm, do bệnh tật, hoặc do không tìm được việc làm. Như vậy tỉ lệ không tìm được việc làm có thể trên dưới 10%, tạm thời chấp nhận được. Một chỉ tiêu xã hội mà đáp ứng được với sai số ±0.1 thì cũng có thể coi là hợp lý. Tuy nhiên, trong số SV có việc làm thì chỉ có hơn 20% là hoàn toàn phù hợp với chuyên ngành được đào tạo. Nghĩa là gần 80% SV phải học thêm nữa để phù hợp với việc làm đã được tuyển dụng, trong đó hơn 10% có việc làm không phù hợp ngành nghề được đào tạo, phải học lại hầu như từ đầu. Các khối ngành có tỉ lệ SV tiếp tục tham gia các khóa đào tạo sau khi tốt nghiệp cao nhất là luật và kinh tế 73,40%, tiếp đến là các ngành văn hóa nghệ thuật, nông – lâm – ngư nghiệp, và y – dược. Ngành có tỉ lệ này thấp nhất là sư phạm thì cũng phải đến 42,40%.
Việc học thêm để bổ sung kỹ năng là điều cần khuyến khích. Nhưng việc có ngành có đến 40% số SV sau khi ra trường phải học lại chính chuyên ngành của mình để bổ sung thêm chuyên môn nghiệp vụ, là một thực trạng đáng chú ý, đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới nội dung, chương trình và nâng cao chất lượng đào tạo để tăng cơ hội có việc làm cho SV, giảm lãng phí nguồn lực cho xã hội.
Phân tích sơ bộ các chỉ tiêu về ANGD, chúng ta thấy ngành giáo dục nước nhà đang đứng trước nhiều thách thức, nếu không kịp thời điều chỉnh đổi mới thì những thách thức này chắc chắn sẽ biến thành nguy cơ tổn hại đến ANGD quốc gia, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình phát triển bền vững của đất nước.
Bình luận (0)